Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday 10 November 2016

SƠN TRUNG * PHAN KHÔI * BIỂN ĐÔNG * HỨA HOÀNH

SƠN TRUNG * NGÀY VỀ QUANG VINH




NGÀY VỀ QUANG VINH 

Sơn Trung

Trước của hội trường, cờ đỏ, cờ xanh, cờ vàng cấm chật ních như là một ngày lễ hội. Trong hội trường tỉnh, quạt máy chạy vù vù. Hội trường tưong đối rộng , có khoảng hơn 100 ghế được bày biện ngay ngắn, lịch sự. Trên tường, trước mặt hội trường là ảnh Hồ Chủ tịch với hàng khẩu hiệu: "Bác Hồ sống Mãi Trong Sự Nghiệp của Chúng Ta ", "Quyết Tâm Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa Văn Minh và Giàu Mạnh ".

Khách tham dự gồm có ủy ban nhân dân tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh, đảng ủy cấp tỉnh, công an tỉnh, tỉnh đội và các cán bộ tỉnh và huyện. Dân chúng đứng hàng trong hàng ngoài có đến vài trăm, trong đó có học sinh các trường, kể cả học sinh lớp Măng non đã đưọc huy động từ 6 giờ sáng.Các em Măng Non đeo khăn quàng đỏ, mồ hôi nhễ nhại, các cô giáo ốm o gầy gò luôn luôn che miệng ngáp.

Khoảng mười giờ các cán bộ đến rải rác. Đến mười một giờ hơn, đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân đến, rồi đồng chí tỉnh ủy đến. Cán bộ càng cao thì đến càng trễ. Trong hội trường cũng như ngoài sân, công an đứng đầy, lăng xăng chạy qua chạy lại ra vẻ bận rộn và tích cực. Ngoài cổng, hai hàng bộ đội bồng súng chào rât trang trọng uy nghi như là để đón tiếp chủ tịch Hồ Chí Minh đội mồ trở về thăm tỉnh.

Ngồi trong hội trường, bên trái là đồng chí bí thư tỉnh ủy và bên phải là đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Thìn cảm thấy mình vô cùng vinh hạnh. Hình như cái đinh hôm nay là Thìn. Dường như cả mấy trăm, mấy ngàn cặp mắt đều đổ dồn vào chàng, người Việt kiều yêu nước của tỉnh. Chàng trở thành nhân vật số một của cấp lãnh đạo tỉnh và của nhân dân tỉnh bởi vì trong mấy năm vượt biên rồi sống ở Đan Mach, chàng nay đã trở thành triệu phú. Chàng được tòa đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch tôn làm thượng khách, thường mời chàng đến đãi tiệc và trân trọng mời chàng về đầu tư. Trung ương Hà Nội và Uỷ ban Nhân dân tỉnh đều gửi thư mời chàng trở về đóng góp tài năng vào công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội. Khi chàng về đến Nội Bài, chủ tịch tỉnh và bí thư tỉnh ủy cùng một lúc đưa xe con ra đón chàng và đưa chàng về tận nhà. \
Họ còn để xe lại cho chàng sử dụng. Họ ân cần hết sức khiến cho chàng cảm động. Ngày hôm nay là ngày lễ cách mạng tháng tám, mấy năm nay vì khó khăn kinh tế, người ta bỏ quên không tổ chức, nay chàng về, người ta tổ chức mừng chàng y cẩm hồi hương và kỷ niệm cách mạng tháng tám luôn thể. Sau phần nghi lễ chào cờ, suy tôn Hồ chủ tịch, mặc niệm chiến sĩ trận vong, viên tỉnh ủy lên đọc diễn văn, ca tụng cách mạng tháng tám và ca tụng công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước và hải ngoại tích cực đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Tiếp tục, đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân lên giời thiệu chàng là một Việt kiều yêu nước, đã tích cực hoạt động ở nước ngoài, được tòa đại sứ Việt Nam tại Đan Mach khen ngợi, và đuợc đảng ủy cấp tỉnh và hội đồng nhân dân tỉnh cấp phát văn bằng Việt kiều yêu nước hạng danh dự. Thìn cảm động hết sức, nước mắt chảy hai hàng, nghẹn ngào không nói nên lời, tay run run khi lên nhận bằng danh dự do chính tay chủ tịch tỉnh ban phát. Từ tổ tiên chàng đến cha ông, không ai được vinh dự chánh tổng đến nhà, và mời ăn uống.


"Con hơn cha là nhà có phúc". Nay thì chàng không những được huyện, mà còn tỉnh và trung ương đến thăm tận nhà, xưng hô ngọt ngào, lịch sự, mời dự tiệc khắp nơi với đủ các món sơn hào hải vị mà ngay khi ở nước ngoài chàng cũng không hề nếm qua dù chàng đã trở thành triệu phú. Chàng thấy sống ở Việt Nam là thần tiên, như là bay bổng trên chín tầng mây. Còn ở nước ngoài, dù chàng là triệu phú hay tỉ phú cũng chẳng ai biết, ai quan tâm. Tiến sĩ, kỹ sư, tỷ phú, anh thợ hồ, anh thợ mộc, anh hầu bàn đều là những con kiến trong một xã hội đông đúc và xa lạ, chẳng ai biết ai. Nay về Việt Nam, chàng đi đâu cũng được trẻ con cho đến lãnh đạo cao cấp, ai cũng trầm trồ, khen ngơị, ca tụng và chào đón rât nồng hậu!


Chàng là người lanh lợi và có số hên. Bố mẹ chàng là nông dân nghèo tại Nam Định. Nhà nghèo không áo che thân và không đủ ăn hai bữa, chàng phải ăn cắp, ăn trộm vặt để mưu sinh. Chàng bị công an tỉnh bắt đánh nhừ tử, nhốt vài ngày lại thả ra vì không có chỗ chứa và không có lương thực cho chàng. Bị công an theo dõi, hết đất làm ăn, chàng theo đám trẻ sống bụi đời, lên Hà Nội sinh sống. Chàng cũng làm nghề cũ, cộng thêm nghề xếp hàng mua gạo tổ. Giờ tan sở, các con đường Hà Nội đều nghẽn lối đi,người ta phải chờ đợi hàng giờ mới về đến nhà, nhưng với tài uốn lách của chàng, chỉ mười lăm phút hay nửa giờ là qua cầu Long Biên cái rụp. Cuối cùng chàng đã xung phong đi bộ đội lúc 16 tuổi để có cái mà sống. Trong bao nhiêu năm đi bộ đội, chàng cũng đã có cơm ăn dù không no, và áo mặc dù là chỉ hai bộ trong người. 
Vì trẻ cho nên chàng phải làm mọi việc lặt vặt trong quân đội, từ cấp dưỡng cho đến chiến đấu tại mặt trận. Tại đây chàng đã ăn bớt gạo, ăn cắp đường sữa bán ra ngoài lấy tiền tiêu xài. Chàng bị bọn chỉ huy ghét bỏ thường bắt giam chàng vì cái tội tham ô và hủ hóa. Họ phê trong hồ sơ chàng là vô sản lưu manh. Đơn vị chàng đồn trú tại Mông Cáy. Lúc bấy giờ Việt Nam và Trung quốc có xung đột, đảng và nhà nước đuổi Hoa kiều về nuớc. Chàng nghe nói các nước tư bản rất giàu, sang được bên đó dù đi làm cu ly vẫn no ấm chứ không như ở xã hội chủ nghĩa, lao động vinh quang suốt ngày nhưng bao tử vẫn lép kẹp. Chàng nghe thiên hạ làm giấy giả theo nạn kiều chạy sang Trung quốc. Chàng bèn lẩn vào trong đám nạn kiều và sang Trung quốc ngon lành. Một số Hoa kiều và người Việt xin ở lại Trung quốc, đuợc cho vào các nông trại . Một số xin đi sang các nước tư bản. Chàng cũng theo họ xin đi đến một quốc gia trung lập và Đan Mạch đã nhận chàng.

Sang đây, chàng gặp một thiếu nữ người Việt, con gái của một gia đình Việt Nam, nhờ làm giấy giả mạo Hoa kiều nên sang được Hồng Kông. Ở đây ít lâu, gia đình nàng đuọc Đan Mạch nhận cho cư ngụ. Hai vợ chồng sống hạnh phúc. Hai vợ chồng xin làm công nhân xưởng dệt, lương bổng cũng tương đối khá. Một hôm hai vợ chồng vào một tiệm phở người Việt, thấy khách hàng vào ra tấp nập. Hai vợ chồng bàn nhau đem số tiền dành dụm được để mở tiệm phở vì nhà nàng trước kia ở Việt Nam cũng đã mở tiệm phở. Công việc làm ăn ngày càng khấm khá. Hai vợ chồng mở thêm nhiều chi nhánh. Ngoài bán phở, hai vợ chồng anh còn làm bánh giò, chả lụa, chả quế,bánh bao. Nhưng trong các món, chả giò và phở là được người Vịệt và người ngoại quốc yêu thích nhất.
Anh phải thuê hàng chục người vừa Việt nam vừa Đan Mạch làm phụ. Trong vài năm, anh trở thành triệu phú. Anh đã gửi tiền về cho bố mẹ xây nhà cửa. Ngôi nhà tranh rách nát năm xưa nay thành ngôi biệt thự rất khang trang. Anh cũng đã giúp các anh chị em mỗi người một số tiền làm vốn. Và lúc này, bên nhà, chính sách mở cửa đã bắt đầu, cán bộ toà đại sứ Việt Nam đã cho người bắt liên lạc với anh, mời anh về đầu tư. Họ cho người vận động riêng với vợ anh, và cha mẹ vợ của anh nữa. Họ đưa ra bao hứa hẹn . Anh ban đầu không thích trở về Việt Nam làm ăn vì anh đã chán một nước Việt Nam nghèo khổ và đầy rẫy cường hào ác bá mà anh đã từng là nạn nhân. Nhưng vì vợ anh, và bố mẹ vợ thúc dục, cộng thêm anh em, cha mẹ bên nhà tuân theo chỉ thị của đảng, đã liên tiếp gửi thư thúc dục anh sớm về đầu tư kẻo lỡ dịp. Khi về, chính anh cũng bị chinh phục vì thái độ thưong yêu, nồng nhiệt và cởi mở của các cán bộ huyện tỉnh đối với khúc ruột thừa xa ngàn dặm quê hương!
\
u khi tham khảo ý kiến bạn bè, anh em, cha mẹ trong gia đình, cùng nghiên cứu thị trường với sự tham gia chỉ đạo của các cán bộ cao cấp của tỉnh, anh quyết định mua một miếng đất rộng lớn của tỉnh xây một nhà khách bốn tầng lầu, gồm 50 phòng với phí tổn sáu trăm ngàn mỹ kim. Anh cũng mua đất xây một cửa hàng ăn rộng rãi, có thể chưá 500 người một lúc, với phí tổn ba trăm ngàn mỹ kim. So với bên Đan Mạch, mọi thứ đều rẻ. Anh hy vọng năm du lịch Việt kiều và người ngoại quốc sẽ đổ về không chỗ ở và nhà khách của anh sẽ thu hút mọi người vì đó là một nhà khách tối tân nhất tỉnh Nam Định. Anh cũng hy vọng cửa hàng ăn của anh có thể là nơi tổ chức tiệc tùng cưới gả, hay nơi ăn uống của Việt kiều và ngoại quốc khi về Nam Định du lịch.


Vì Việt kiều không được phép kinh doanh hay mua nhà đất, cho nên anh nhờ anh Hai đứng tên mua và xây nhà khách, còn cửa hàng ăn thì nhờ anh Ba đứng tên hộ. Còn vợ chồng cô em gái thì anh giao đứng tên và trông coi cửa hàng kim khí điện máy. Theo luật nhà nước, muốn kinh doanh, các hộ phải có tiền mặt bỏ vào ngân hàng ít nhất là 50 ngàn mỹ kim. Ba cơ sở trên, anh đã bỏ tất cả gần triệu rưỡi mỹ kim chưa kể tiền biếu xén và ngoại giao trà nước. Anh thấy mình quả vĩ đại không thua gì Hồ chủ tịch vì anh đã xây những cơ sở vật chất to đẹp, tối tân cho tỉnh. Anh đã đem lại công ăn việc làm cho bà con, cho nhân dân. Dĩ nhiên bà con anh đã được thu nhận vào làm việc tại các cơ sở của anh. Ngoài ra những người của công an, ủy ban, tỉnh ủy cũng đưọc thâu nhận vào làm việc. Anh thấy anh là người nhân hậu, quảng đại vì anh đã thu nhận tất cả mọi người, bà con cũng như không bà con, nhất là những người do chính quyền giới thiệu. Anh cũng thấy anh là người có tài xã giao rộng rãi, luôn luôn làm vui lòng bà con cũng như chính quyền. Anh là niềm kiêu hãnh cho bố mẹ, anh em và họ hàng, làng xóm. Anh rất là vui vẻ vì anh thấy anh là một vị anh hùng , ít nhất là anh hùng của tỉnh vì trong tỉnh không ai giàu bằng anh và yêu nước bằng anh!


Anh đi về Đan Mạch thăm vợ con rồi trở lại Việt Nam. Đây là lần thứ ba anh trở lại thành Nam. Anh được Ban Việt Kiều trung ương mời lên Hà Nội tham dự một cuộc họp đại biểu Việt Kiều yêu nước. Anh cảm thấy vô cùng vinh dự. Tiếng tăm của anh không những vang lừng khắp tỉnh Nam mà con vang dội đến thủ đô, và có lẽ sẽ vang lừng khắp nuớc và khắp hoàn cầu. Anh nghĩ người ta cưng chiều anh cũng là phải, vì anh là người đầu tiên trở về đầu tư, họ phải kính trọng anh để lôi cuốn các Việt kiều ở Anh, Pháp, Mỹ.

Ở Hà Nội, sinh hoạt với các cán bộ trung ương độ nửa tháng, mọi chi phí đều do trung ương đài thọ. Anh được đi xem lăng Hồ chủ tịch và đi du lịch nhiều nơi như hang Pac Bó là cái nôi của cách mạng,và bải biển Đồ sơn là nơi nghỉ mát của các lãnh đạo trung ương.
Khi anh ở Hà Nội về, mọi công việc kinh doanh đã tiến hành tốt đẹp. Nhà khách, nhà ăn đều có khách ra vào, tuy chưa đông đảo như ý muốn nhưng buồi sơ khởi thế là tốt lắm rồi.

Một buổi trưa, anh ngồi làm việc tại văn phòng nhà khách thì một cô nhân viên bước vào phòng. Sau câu chào hỏi, cô ta ngồi vào lòng của anh, rồi bạt tai anh một cái như trời giáng. Anh xô cô ta ra, cô xõa tóc, tuột áo ra làm mất cả hàng nút áo, rồi kêu la ầm ĩ rằng anh ta hãm hiếp cô ta. Ngay tiếng kêu đầu tiên của cô ta, các nhân viên nhà khách và công an ập vào, làm biên bản, chụp hình. Mọi người đều nhất trí kết tội anh ta hãm hiếp công nhân nhà khách và họ tuyên bố sẵn sàng ra tòa làm chứng vụ này.Công an bắt anh lên trụ sở làm việc, rồi tống giam. Trong lúc đó, mọi người trong gia đình của anh được gọi lên công an kinh tế làm việc. Ba anh chị em của anh đều được mời lên trụ sở công an một lúc nhưng lại được ngồi ở ba văn phòng khác nhau do những công an gộc của tỉnh thẩm tra.

Khi vợ chồng anh Hai của anh bước vào, họ nghiêm nghị chỉ ghế cho anh chị của anh ngồi xuống. Họ ôn tồn nói:
- Vì gia đình anh chị thuộc diện kinh doanh cao cấp cho nên chúng tôi mời anh chị đến để bổ túc hồ sơ theo luật định. Xin anh chị thành thực trả lời để chúng tôi làm việc. Xin anh chị cho biết tên họ, dịa chỉ, số chứng minh nhân dân.

Anh thành thực trình bày, và những lời khai của anh được một ủy viên thư ký ghi chép đầy đủ.
-Xin anh cho biết xây nhà khách hết bao nhiêu ? Và tiền ở đâu mà anh có?
-Thưa cán bộ, tiền đó là do người em tên Thìn đem về để xây cất nhà khách. Phí tổn mua đất, xây nhà, và đồ trang trí nội thất hết 800 ngàn dô la Mỹ.
-Anh chị xây nhà khách, vậy có giấy phép không?
-Chúng tôi chưa xin được giấy phép nhưng tỉnh uỷ đã khuyến khích chúng tôi cứ xây, giấy phép sẽ về sau.
Viên công an đổi sắc mặt quát tháo:
-Láo! Làm nhà phải có giấy phép, không có giấy phép sao tự ý xây cất? Anh lại còn vu khống cho tỉnh ủy à?


Cuối cùng vợ chồng người anh Hai phải ký nhận vào lời khai rồi ra về trong nước mắt. Hoàn cảnh vợ chồng anh Ba và cô Út cũng không khác gì hơn. Có lẽ họ khá hơn vợ chồng anh Hai vì vợ chồng anh Hai đã rơi vào lão Ba Búa là tay hùm xám Nam Định. Còn họ đuợc viên công an già ngọt ngào thuyết phục, phải thành thực khai báo thì đuợc trọng thưởng, nhà nước rất tôn trọng Việt kiều yêu nước, và gia đình Việt kiều. Nếu kê khai rõ ràng thì sẽ đươc vĩnh viễn làm chủ mọi thứ đã được đúng tên. Những người này trước sau đều thành thực khai rằng tiền của đầu tư, mua đất, xây nhà, mua sắm máy móc là của người em là Lê Văn Thìn, Việt kiều yêu nước ở Đan Mạch về. Họ khai xong ký tên vào biên bản và ra về trong lo âu, thắc mắc, không hiểu tại sao. Cả bố mẹ Thìn cũng đưọc kêu lên làm việc. Họ hỏi:

-Tiền đâu cụ làm nhà?
-Dạ thưa cán bộ, tiền tôi làm nhà là do con tôi tên Thìn mang về.
-Khi mang tiền vào Việt Nam , anh Thìn có xin giấy phép không? Có khai báo cho tỉnh hay huyện biết không ?
-Thua cán bộ, việc đó thì tôi không đuợc rõ.
Người ta đưa bút cho hai cụ ký và cho hai cụ ra về trong cay đắng nghẹn ngào.


Tòa án tỉnh tuyên cáo anh phạm nhiều tội nhưng những tội chính là:
-Thứ nhất: chuyển tiền vào Việt nam bất hợp pháp ( không kê khai và xin phép.)
Thứ nhì: Đầu tư bất hợp pháp ( Chính phủ chưa cho anh đầu tư mà anh đã đầu tư gian lận bằng cách cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, phá hoại kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Điều này luật đầu tư đã nói rõ).

Thứ ba: Mua nhà bất hợp pháp ( chính phủ chưa cho mua nhà mà đã mua nhà, cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, luật nhà đất cũng đã nói đến việc này).
Thứ tư: chiếm đất công, xây cất bất hợp pháp.
Thứ năm: trốn thuế.
Thứ sáu: cưỡng hiếp nữ công nhân.

Họ tuyên án anh hai muơi năm tù , phạt vạ hai triệu mỹ kim, tịch thu tất cả cửa hàng và tài sản do anh xây dựng, ngay cả ngôi nhà của cha mẹ anh . Còn các anh chị em vì thành thực khai báo nên mỗi người chỉ bị tù sáu tháng.

Một sáng, người ta thông báo Thìn đã tự tử . Một số bảo rằng anh uất ức mà tự tử. Một số lại xì xào bàn tán rằng Thìn đã bị người ta giết bịt miệng.

Sunday, April 19, 2015


NGUYỄU HỮU SƠN * PHAN KHÔI

Vị thế Phan Khôi trong phong trào Thơ mới nhìn từ thực tại Thơ mới 1932-1945

Qua thời gian, tên tuổi nhà văn hóa Phan Khôi (1887-5.VIII.1959), còn có các bút danh Chương Dân, Thông Reo, Ngọa Du Nhân, Tú Sơn... ngày càng trở nên sáng rõ hơn trên các tư cách nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà báo, nhà khảo cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa, văn học, ngôn ngữ v.v… Ở đây chúng tôi tập trung xem xét vị thế Phan Khôi trong phong trào Thơ mới trên hai tư cách: nhà thơ khơi mở phong trào Thơ mới, đồng thời là nhà phê bình cũng như đối tượng được phê bình, trao đổi. Nói khác đi, Phan Khôi là hiện tượng “kép”, có cả hoạt động sáng tác và phê bình, vừa mở đường vừa là chứng nhân, vừa khai phá vừa thúc đẩy, vừa là người anh hùng vừa đi ca ngợi người anh hùng, để lại những dấu ấn sắc nét trên dặm dài lịch sử phong trào Thơ mới 1932-1945. Điều cần chú ý thêm, chúng tôi chủ ý nhận diện chân dung và xác định vị thế Phan Khôi qua thực tại TThơ mới giai đoạn 1932-1945, tức là trong đúng môi trường, không khí, cảnh quan thơ mới; truy tìm nguồn tư liệu trong đúng bối cảnh phong trào thơ mới, tìm hiểu tiếng nói của người trong cuộc, “người đương thời Thơ mới bàn về thơ mới”(1)
1. Sau những thử nghiệm và cố gắng thoát xác Đường luật, đổi mới thơ của Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải, Lê Khánh Đồng... phải đến Phan Khôi mới thực sự lát được những viên gạch đầu tiên cho phong trào thơ mới. Trong bài viết Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ in lần đầu trên báo Đông Tây ở Hà Nội(2), ngay sau đó in lại trên báo Phụ nữ tân văn (PNTV) ở Sài Gòn(3), Phan Khôi đã vừa giới thiệu, quảng cáo và khẳng định sự ra đời một lối thơ mới. Vì tầm quan trọng của tác phẩm này nên chúng tôi in lại toàn văn, lấy bản in trên báo Đông Tây làm bản trục và có chú thích, khảo dị những chữ sai khác so với bản in trên Phụ nữ tân văn.
“Mới đây, tôi có được gặp ông Phạm Quỳnh ở Sài Gòn. Trong khi nói chuyện, ông nhắc đến mấy bài Trúc chi từ của tôi đã làm trên sông Hương khi gặp người bạn cũ là ông Nguyễn Bá Trác ở ngoại quốc mới về; ông Phạm tỏ ý khen mấy bài đó và nói chính mình đã dịch nó ra tiếng Pháp. Sau hết, ông khuyên tôi nên giữ cái thái độ ngâm thơ như hồi đó là hơn[1].
Lời khuyên của ông Phạm đó, dầu là lời nói dởn đi nữa, với tôi, tôi cũng phải nhìn là có ý nghĩa. Nhưng sau khi nghe lời ấy, tôi chỉ có thể gật đầu mà làm thinh, không dám vội vàng tỏ ra mình đã vui lòng lãnh giáo. Vì con người ta mà muốn thay đổi cách sinh hoạt về tinh thần, lại còn khó hơn Chánh phủ thay đổi cái chế độ giáo dục hay chế độ nấu rượu nữa, không phải việc chơi đâu mà hấp tấp.
Duy có vì nghe lời ông đó mà tôi nhớ sực[2] lại sự làm thơ. Thật, cái động cơ viết bài này là chính ở mấy lời của ông[3].
Ông Phạm bảo tôi nên lấy lại cái thái độ ngâm thơ hồi trước; trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Mà quả thế, gần mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có.
Trước kia tôi dầu không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm, tôi cũng có được dăm bảy[4] bài, hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng Nôm. Mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là dăm bảy[5] bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay, mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, kể[6] cũng như là không có.
Xin thú thật với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!
Vậy thì hiện nay, đừng nói tôi không chịu nhận lời khuyên của ông Phạm, dầu cho tôi nhận đi nữa, mà tôi không còn làm thơ được, thì ông mới xử trí cho tôi làm sao? Đó, chính cái vấn đề ở đó rồi.
Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng, chẳng khác nào cái thân của tôi là lúng túng. Thơ chữ Hán ư? thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choáng[7] trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? thì cụ Tiên Điền, Bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi, làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại, nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào họ chưa nói, mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh lẫn quẫn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật là[8] dễ tức!
Duy Tân đi! Cải Lương đi!
À, có rồi, chứ có phải không đâu. Thì như bài thơ Dân Quạ đình công:
Bài ấy của tôi đã đăng trong Đông Pháp thời báo, năm 1928, được nhiều người hoan nghênh, kể cũng đáng cho là một ngôi sao chổi giữa trời thơ! Cho đến ngày nay, tôi đọc lại vẫn còn nhìn là được, nhưng thích thì tôi không thích[9].
Đại phàm thơ là để tả cảnh tự tình, mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải qui cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng ra, theo lối thất cổ, như bài Dân Quạ đình công đây[10], cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó phải mất cái chơn đi, không mất hết, cũng mất già nửa phần.
Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một đều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chứ nếu[11] lột tận xương ra mà xem, thì chẳng biết cái hay ở đâu. Như bài Dân Quạ đình công đó, chỉ nhờ có đem việc đình công là một việc mới ra mà tả, việc ấy lại là hiệp với… người đời nay, thành thử người ta ưa, chớ coi kỹ thì nó cũ quá, thiệt tình chẳng phải hay gì[12].
Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thực nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối Thơ mới này ra, là: Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết. Ấy là như:
TÌNH GIÀ
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cái đầu xanh, kề nhau than thở:
- “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
“Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho
bằng sớm liệu mà buông nhau!”
- “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
“Thương được chừng nào hay chừng nấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
“Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?”
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi!
 Đó là bài thơ tôi làm trước đây vài tháng mà tôi kêu là một lối Thơ mới đó. Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới! mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ.
Chẳng phải tôi là người thứ nhất làm ra việc này[13]. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị thất bại.
Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một nơi[14] đế đô mà cái vượng khí đã tiêu trầm rồi, ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa; nhưng tôi tin rằng sau này có người sẽ làm như tôi mà thành công”.
Qua bài tự luận này có thể thấy tài năng thơ ca của Phan Khôi phát xuất từ chính tính cách cùng những chiêm nghiệm của ông về cuộc đời và chính đời sống văn học. Một mặt, ông chỉ đích danh nhiều người làm thơ đương thời chỉ là “thợ thơ” và thừa nhận mình không còn rung cảm với lối thơ xưa cũ ấy nữa: “Xin thú thật với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!”; mặt khác, trực giác mách bảo ông phải đổi mới lối cảm lối nghĩ: “Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết”… Mặc dù còn nhiều băn khoăn, thậm chí chưa thật vững tin vào thành công của thơ mình nhưng Phan Khôi lại đầy nhiệt thành tin tưởng vào chiều hướng cái mới do ông mở đường và xu thế phát triển tất yếu của phong trào thơ mới.
Đương nhiên ngay sau khi Phan Khôi khơi nguồn Thơ mới đã gặp nhiều ý kiến phản đối nên đã phải lên tiếng tự bảo vệ, bào chữa và đối thoại lại qua bài viết Về lối Thơ mới sau bài Tình già: vừa mở ra đã có người lo cột lại:
Làng thơ bên Pháp lâu nay có nảy ra một lối Thơ mới kêu là "thi tự do" (vers libre). Nó đã không niêm, không luật, không hạn chữ, cũng không có vần nữa. Bên Tàu chừng hơn 10 năm nay cũng có lối Thơ mới ấy rất thịnh hành.
Lối thi tự do của họ đó, tôi phản đối. Bỏ luật, bỏ niêm, không bắt hạn chữ thì tôi chịu; nhưng bỏ vần đi thì tôi không chịu. Tôi nói: Thơ khác với văn là chỉ nhờ có vần. Làm như họ thì chỉ là một bài văn xuôi (prose) rồi đem viết riêng ra mỗi câu một hàng chớ không phải là thơ (vers). Theo cái nguyên tắc ấy tôi mới thành lập lối Thơ mới của tôi, tức như bài Tình già. Bài này, không niêm, không luật, không hạn chữ, nhưng mà phải có vần, ấy là tôi làm nó ra theo như cái nguyên tắc tôi đã lập…
… Một việc cải cách rất nhỏ, cải cách về lối làm thơ, mà người ta còn lôi kéo nhùng nhằng như vậy, huống chi là việc cải cách về tư tưởng, về chế độ gia đình xã hội; ông Nguyễn Khắc Hiếu ông cho rằng "cái nạn Phan Khôi" cũng phải!...
… Tôi xin các ông đi, đừng có làm như Thượng Minh nữa. Lối Thơ mới ấy của tôi, có đứng được thì để, không đứng được thì bỏ đi, chớ đừng có điều đình, tôi đã "bất điều đình" mà!...
… Bài này có trọn tính chất quảng cáo, không có gì là hay; nhưng tôi lục trình ra đây cho biết cái lối Thơ mới ấy đặt thế nào cũng được, không phải một thể như bài Tình già mà thôi(4)
2. Trong suốt thời Thơ mới, Phan Khôi còn có nhiều lần phát biểu, trao đổi, luận bình về thơ ca đương thời. Trên thực tế, vừa khi Nam Trân trình làng những bài thơ in báo ban đầu thì ông đã được xếp hạng "thi nhân". Nhà khảo cứu và phê bình cựu trào Ngọa Du Nhân Phan Khôi đã trân trọng giới thiệu với nhiều hy vọng và tiếc nuối về sự ra mắt của Nam Trân trong bài Thơ của Nam Trân: "Đầu năm 1935, báo Tràng An ra đời; năm bảy kỳ đầu tiên đó người ta thấy những bài thơ dưới ký tên Nam Trân. Nhiều bạn làng văn ở Huế tin rằng Nam Trân sẽ từ nay nổi tiếng như phao trên thi đàn và thơ của Nam Trân sẽ được gặp luôn luôn trên tờ báo mới ấy. Không ngờ, trải qua một thời gian chẳng phải vắn vỏi gì mà cái điều sở nguyện của người ta vẫn chưa thấy toại; rồi thơ Nam Trân từ đó cũng tuyệt tích trên báo Tràng An"(5)...
Tuyển dẫn bốn bài (Trước chùa Thiên Mụ; Huế, mưa dầm; Huế, mùa hạ; Huế, mùa hạ II), Ngọa Du Nhân trịnh trọng khẳng định: "Tôi dám chắc bạn đọc khi vồ lấy bốn bài nầy ở đây được rồi, cứ ngâm đi ngâm lại mà không thấy chán. Liền đó, bạn phải nhận cho tác giả của nó là một thi nhân số một số hai ở hiện thời, liệt vào với bọn Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, không đến làm cho mình phải thẹn, vẫn biết rằng tài điệu riêng mỗi người mỗi lối, cảm hứng mỗi người đi mỗi đường"... Nhân đây xin thưa rằng, nhan đề các bài thơ trên được Ngọa Du Nhân dẫn nguyên theo báo Tràng An mà sau này Nam Trân đưa vào tập Huế, Đẹp và Thơ có cải dạng một vài chữ.
Lấy dẫn chứng từ bốn bài thơ trên, Ngọa Du Nhân đã từ điểm nhìn ngôn từ nghệ thuật mà đi sâu bình phẩm: "Bài Trước chùa Thiên Mụ là rập theo điệu bài thơ Đằng Vương các của Vương Bột, nhưng cái hay không phải toàn ở điệu. Nó hay ở một bài thơ mà như một bức họa. Ông nào vẽ giỏi, thử theo từng câu mà vẽ ra xem, khắc thấy trước mắt một cảnh đẹp thiên nhiên... Nam Trân hạ những chữ trong bài thơ của mình, bằng một cách táo tợn mà ngộ nghĩnh. Như chữ "đẩm" trong câu "Tiếng hát ông ngư đẩm bóng cây", chữ "sừng" trong câu "Đồi thấp sừng trăng dỏi dỏi soi", chữ "đánh đổ" trong câu "Đánh đổ giấc ngủ ngày", chữ "trỏn trẻn" trong câu "Mặt trăng vàng trỏn trẻn" đều là những chữ có vẻ khác thường, ít ai hạ được như thế... Không dám mếch lòng thi sĩ khác, nhưng tôi phải nói thật rằng tôi không ưa thơ họ bằng thơ Nam Trân. Luận thơ, tôi trọng nhất ở chữ "chân". Có phải không, hoặc tả cảnh, hoặc ngôn tình, trong thơ Nam Trân cũng dễ tìm thấy chữ "chân" hơn thơ của người nào? Ai đã qua Huế một năm, phải chịu những bài Mùa hạ, Mưa dầm là không cãi được lấy nửa lời"...
Đề cao thơ Nam Trân nhưng Ngọa Du Nhân cũng công bằng và thẳng thắn chỉ ra những bài, những câu theo ông là chưa đạt: "Tôi khen Nam Trân hạ chữ ngộ nghĩnh, không phải là tôi không thấy ông ta dùng chữ còn chỗ sống sượng đâu. Như câu "Như luồng khói nhẹ lên lên mãi", câu thì hay, mà phải chữ nhẹ để vào đó có hơi ngớ ngẩn. Phải có thứ khói nào nặng thì mới nói như thế được chớ? Tôi muốn đổi lại là "Nhẹ như luồng khói..." mà tôi cho là dễ nghe hơn. Nam Trân lại có một chỗ trong thơ ông ta làm cho tôi không đồng ý được nữa, là cách bỏ vận. Không vận thì thôi, chớ đã có, tôi nói, phải gieo cho đúng. Nam Trân thì:
Xao xác đồng chiêm uống giọt sương,
Sương pha màu sữa dưới trăng mờ.
Lều tranh xám xịt bâu sườn núi,
Sau dãy rào tre khúc rậm, sưa.
Ấy là bốn câu đầu của bài Cảnh quê. Tôi phải lấy làm lạ sao đã nhả ra được những câu thơ như thế mà lại không chịu săn sóc đến vận một chút để được an toàn hơn!"...
Rồi Ngọa Du Nhân Phan Khôi bộc lộ rõ tính cách của mình khi bày tỏ thái độ trước câu chuyện thơ và đời Nam Trân: "Dù thế nào, trên con đường thơ mai sau, tôi có hy vọng ở Nam Trân lắm lắm. Một thi nhân đáng biểu dương như thế ai nỡ để cho mai một đi trong hoạn trường là chỗ để mai một cái thiên tài của người ta!"...
Khi Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) qua đời, Phan Khôi viết bài Tôi với Tản Đà thi sĩ đầy nghĩa tình, thẳng thắn, chân thực. Ông kể về những năm tháng sơ giao đầy ấn tượng, thiên về một phía Phan Khôi hướng về Tản Đà:
“Vừa rồi Tản Đà thi sĩ về chầu Trời (nói thế cho oai và cũng cho có sách, nghĩa là dùng điển ở thơ ông)! Nghe tin, tôi cảm động lắm. Muốn tỏ tình đối với ông, tôi nghĩ nên có câu đối phúng hoặc hùn vào các báo một số tiền quyên giúp gia đình. Rút cục, hai thứ đều không có, vì lâu nay tôi không đặt câu đối nữa và cũng nghèo như ông vậy. Tôi quyên bằng cái cách tỏ tình bằng "cây nhà lá vườn", mà mãi đến hôm nay tôi mới nhớ ra: Viết một bài trên báo kể sự quan hệ giữa ông và tôi từ trước, là một cách tiện đủ về mọi phương diện!
Tôi biết ông Nguyễn Khắc Hiếu từ năm 1918, khi tôi bắt đầu ở Hà Nội viết cho tạp chí Nam phong. Một đêm mùa xuân lạnh ngắt, tôi đương nằm đọc sách ở cái gác của nhà báo ấy ở Hàng Bông, tức là ngụ sở của ông Nguyễn Bá Trác bấy giờ. Bỗng có khách vào. Ông Trác giới thiệu cùng tôi: Đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy!
Thật thế. Cái tên Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng long trọng lắm. Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật.
Số là sự trứ tác bằng quốc ngữ hồi đó còn ít lắm, ít lắm nữa là về mặt sáng tạo. Thế mà trước kia đọc Đông Dương tạp chí tôi đã thấy những bài như Cái chứa trong bụng người của ông; lần ấy đến Hà Nội lại vừa gặp Giấc mộng con của ông xuất bản, tôi không thể nào không phục ông là tay đại tài. Tôi phê bình riêng trong trí thế này: "Anh Quỳnh anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo!"…
Thế mà chưa mấy! Đến vận văn của ông còn làm cho tôi như muốn nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa kia! Tôi thường hay lấy giọng để ngâm những câu "Ngoảnh trông lên anh đếch thấy có ra gì" hay là "Mời khách hãy ngồi yên trong cõi tục" mà ngợp người đi. Vì trong khi ấy, tôi thấy Nguyễn Khắc Hiếu như ở trên cao rồi mà mình cũng lại như theo hắn mà ở trên cao nữa. Mình đáng lẽ nằm rạp xuống đất mà nay ở trên cao, làm sao chẳng ngợp.
Đêm ấy ba chúng tôi nói chuyện với nhau lâu. Thì ra tôi thấy ông Hiếu vui tính, hay cười và nhũn nhặn lắm. Sáng ngày ra, tôi liền khoe với ông Dương Bá Trạc: "Đêm qua tôi có gặp ông Tản Đà rồi!". Tôi lấy sự gặp được ông Hiếu làm hân hạnh, thật tình!
Trong thời kỳ đó tôi còn gặp ông một vài lần nữa, nhưng không có gì đáng ghi nhớ. Một điều tôi thấy chắc, là ông chẳng hề để tôi vào mắt ông. Đã thế thì mình cũng chẳng mong gặp người ta làm chi. Kế hai năm sau tôi ở Sài Gòn, rồi lại ở Hải Phòng, hình như tôi cũng đã quên ông ấy nữa”(6)
Rồi những kỷ niệm một thời bè bạn, khi cả hai ông mới ngoài ba mươi tuổi, cùng làm báo và cùng tếu táo, nhiều tài ba và cũng thật nhiều sự kiêu ngạo, tự tin và tự tín:
“Năm 1921, tôi trở lại Hà Nội mới bắt đầu cùng ông chơi thân. Kể ra tôi lúc ấy "hay rượu" lắm, uống nhiều mà không say, lại sính thơ, đến nỗi viết ra cuốn Nam âm thi thoại, nhờ hai cái đó mới bén với Tản Đà thi sĩ được.
Lần thứ nhất tôi uống với Tản Đà tại một quán ở hàng chả cá. Từ chín giờ sáng đến một giờ chiều, nói hết chuyện ấy sang chuyện khác, uống hết chai ấy sang chai khác, rồi hai chúng tôi thấy tâm đầu ý hiệp lắm, dần dần trở nên đôi bạn thiết.
Năm ấy Hữu thanh tạp chí ra đời, Tản Đà làm chủ bút. Ông muốn tôi có chân trong toà soạn lắm, nhưng bị có người ngăn cản phải thôi. Tuy vậy, trong mấy tháng đó hai chúng tôi cứ vài ngày lại hội riêng để uống rượu và đàm luận cùng nhau, và tôi cũng có viết bài cho tạp chí ấy.
Chỗ chúng tôi hội là cái gác ở phố bờ sông, gần cột đèn; đến sau là cái gác của nhà báo Hữu thanh; cũng có mấy lần ở nhà cô đào Hàng Giấy.
Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hoả lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn; có khi mãn một tiệc ăn, người nhà phải thay than trong hoả lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú. Có lần ở tại cái gác Hữu thanh, ông viết giấy mời tôi đến lúc mười giờ đêm, rồi uống mãi cho đến hai giờ sáng. Lần khác ở nhà cô đào Lân, ông và tôi, và một người bạn của ông nữa, chừng như ông Tú Tô thì phải, uống từ mười một giờ đến năm giờ sáng mới về.
Có bữa chén ấy không thể nào quên được trong đời tôi. Ông cùng người bạn đến trước, chiếm một cái phòng nhỏ mà rất lịch sự ở trong cùng. Đoạn ông bắt cô Lân phải ăn mặc đàn ông ra đón tôi ở cửa. Cô Lân bấy giờ có tiếng lắm ở Hàng Giấy, cũng gọi bằng Thuỵ Khanh, lại có cô em tên là Đức. Tuy vậy, hôm ấy ông Hiếu ép cô Lân phải mặc trai ngồi uống rượu nói chuyện với chúng tôi như bốn người đàn ông, chứ không cho cô Đức dự vào. Đến khi người bạn ra về trước, trong tiệc mới xoay lại làm hai cặp. Tôi còn nhớ trong lúc đó Thuỵ Khanh có một câu đối thách chúng tôi: "Đức bất cô, tất hữu lân". Nhưng Tản Đà cùng tôi nhìn nhau không đối được! Sau bất đắc dĩ tôi phải xin Thuỵ Khanh bớt cho ba chữ ra "Đức hữu lân"; rồi tôi đối lại: "Dân hưng hiếu" (Dân là một chữ trong bút tự của tôi).
Ông Hiếu làm chủ bút Hữu thanh đâu chừng nửa năm là ông từ chức. Sự ông từ chức, tôi cũng cho là phải, dù tôi, tôi cũng không làm được, huống là ông ấy!
Từ khi ông Hiếu không ở Hà Nội nữa thì ông và tôi cũng xa nhau, xa cả mắt lẫn lòng. Tôi nghiệm ra ông với tôi không làm bạn lâu được, không phải tại gì, mà tại tính cách hai người không giống nhau; thật có như Nguyễn Du nói: "Trong khi chắp cánh liền cành - Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên" đó vậy!
Lần đầu hết uống trong quán chả cá, say rồi, tôi rủ ông đi chơi, mà ông thì đòi về đi nghỉ. Bấy giờ tôi cậy thân và cũng có chán rồi, nên nói một cách như nộ nạt: "Uống say để rồi làm gì, chứ để đi nghỉ thì uống say làm chi?". Ông gượng cười rồi cùng đi về nhà trọ tôi ở Hàng Đào, ông ngủ trên gác cho đến chiều, còn tôi đánh tổ tôm ở nhà dưới.
Khi sắp làm chủ bút Hữu thanh, ông mở cuộc diễn thuyết, tức là cuộc diễn thuyết về "Đời đáng chán hay không đáng chán". Hôm sau diễn thuyết thì hôm trước có một người trong nhóm Hữu thanh dặn tôi rằng giữa lúc diễn thuyết, hễ nghe vỗ tay thì cũng vỗ tay. Tôi lấy làm quái; tôi mắng người ấy đã đành mà cũng nhân đó ngờ đến ông Hiếu nữa; một người quân tử sao lại có sự toạ tập với nhau như thế? Đến sau tôi xét ra ông Hiếu bị lợi dụng, những sự sắp đặt ấy toàn ở người khác, chứ không ở ông; nhưng cái cảm tình tôi đối với ông đã vì đó lợt lạt một vài phần rồi.
Bấy giờ báo còn bị kiểm duyệt. Bài thứ nhất tôi viết cho Hữu thanh là bài Nghĩa làm dân được ông khen lắm, nhưng bị kiểm duyệt xoá bỏ, không được đăng. Một hôm, giữa bữa rượu, ông nói cùng tôi rằng: "Đó, anh coi, tôi viết bao nhiêu bài không sao, còn anh mới viết một bài đã bị xoá, đủ biết ai có tài đáng làm chủ bút hơn". Tôi vẫn biết ông nói chơi, nhưng nói chơi bằng một câu chẳng có ý cao thượng tý nào, làm cho tôi không thích.
Lần khác sau bữa rượu, ông hỏi tôi: "Anh ở một mình như thế thì... làm thế nào?". Tôi nói: "Tôi theo phác xia chủ nghĩa. Tôi coi sự nam nữ là một sự cần cũng như phác xia. Hễ tôi cần phác xia là cứ đến nhà xia". Thế rồi hai chúng tôi cùng đến một nhà ở phố Gia Ngư. Mỗi người làm việc của mình xong, bỗng có một nhân vật Đại Pháp đến làm lôi thôi, tôi toan dùng võ lực đối phó. Ông nhất định cản tôi, bắt phải về. Về nhà, ông giảng cho tôi nghe, cái cử chỉ vừa rồi của tôi là cái cử chỉ võ phu, không nên có! Nhưng tôi không chịu, cãi lại rằng: "Đã đến thế rồi, còn sợ gì là võ phu nữa?". Thì ra đối với đạo đức, hai bên có quan niệm khác nhau: ông Tản Đà thì đi chơi đĩ được, nhưng không nên đánh lộn; còn tôi, đã đi chơi đĩ được, thì đánh lộn cũng không từ!
Vì hai cái thái độ không thể dung nhau ấy làm cho hai chúng tôi khi biệt nhau rồi là thôi, không hề có thư từ cho nhau cả. Mãi đến sau, khi ông Hiếu vào Sài Gòn thì tôi chưa có ở đó. Kịp lúc tôi ở Sài Gòn, có gặp ông ở Bắc vào một bận, thì hai người vẫn tay bắt mặt mừng như xưa, mà tâm tình đã thấy có chỗ cách biệt với nhau rất xa. Đó rồi ông về, lên án đòi chém Phan Khôi trong An Nam tạp chí.
Tôi biết ông Tản Đà là người thông minh, có thiên tài, nhưng không chịu học. Ông tự cho ông như thế là đến nơi rồi, không còn tiến bộ gì nữa; bởi vậy ông thấy đời không được rõ. Biết như thế nên tôi đã thật tình nhịn thua ông đi, ông đòi chém tôi mà tôi chẳng hề cãi lại nửa lời”...
Đến đoạn kết, Phan Khôi đi sâu lý giải về tình bạn, tình người, tỏ bày sự kính trọng, tâm đắc và hoài niệm bậc tài danh kém mình hai tuổi đã sớm về cõi hạc:
“Thế thì làm sao hồi đầu hai chúng tôi hiệp nhau được? Phải chúng tôi hiệp nhau ở cái chỗ đại tiết.
Lần uống rượu ở quán chả cá, chúng tôi thảo luận về cách ở đời của chúng tôi nên làm sao. Ông Hiếu và tôi đều rập nhau nói: "Chúng ta nên gắng làm đại trượng phu!". Rồi mỗi đứa đọc đoạn này trong sách Mạnh Tử: "Cư thiên hạ chi quảng cư; lập thiên hạ chi chính vị, hành thiên hạ chi đại đạo; đắc chí, dữ dân do chi; bất đắc chí, độc hành kỳ đạo; phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất; thử chi vị đại trượng phu", mà cười phá lên và uống cạn chén mình. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi thấy chúng tôi hào hoa vô cùng, phong nhã vô cùng, vĩ đại vô cùng thì làm sao chẳng trở nên một đôi bạn đồng tâm cho được? Mà bây giờ đây, tuy một mất một còn, hai chúng tôi cũng vẫn cứ hiệp nhau ở chỗ ấy chứ sao?
Ông Tản Đà ơi! Đại trượng phu!...
Chúng ta có là đại trượng phu không, ông Tản Đà?”...
Trong tư cách nhà phê bình, Phan Khôi cũng có những quan niệm, cách tiếp nhận và cảm thụ riêng, thậm chí không theo kịp bước tiến của Thơ mới qua hiện tượng thơ Bích Khê, Hàn Mặc Tử và vấn đề hình thức câu thơ. Trên thực tế, Phan Khôi phản biện lại những tiếng nói qui chụp, khẳng định rằng mình chỉ phê những bài thơ, câu thơ cụ thể chứ không phê phán toàn bộ thơ mới. Với nhan đề Một tai nạn của văn học đặt trong mục “Chuyện hàng ngày”, Phan Khôi dẫn giải:
“Nền văn học Việt Nam mới gầy dựng lên vài chục năm nay, đến nay bỗng dưng gặp một tai nạn lớn. (lược vài đoạn không quan hệ) Cái tai nạn gì thế? Chẳng có gì lạ, chỉ là viết văn không nghĩa. (lại lược một câu)
Phàm văn, khoan cầu hay đã, trước phải cầu cho có nghĩa. Phải có nghĩa đã, rồi sau mới nói đến hay hay dở. Nhưng hiện nay có một hạng văn sĩ, hình như họ chỉ cầu cho hay, còn có nghĩa hay không, họ không cần. Bởi vậy thường có những câu vô nghĩa trong văn họ mà có lẽ họ gọi là hay đó.
Một tập thơ xuất bản đã lâu, nhan là Tinh huyết, tác giả là Bích Khê, mà đến ngày nay tôi mới đem ra chỉ trích cũng hơi muộn. (lại lược một câu).
Một bài đề là Hoàng hoa trong có những câu như vầy:
Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời,
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy,
Chim yên eo mình nương xương cây.
“Lam nhung” là gì? “Xanh nhung” là gì? “Chim yên” là gì? “Xương cây” là gì? Chẳng có nghĩa gì cả. (lược bỏ nhiều câu ở dưới vì đều thế cả)
Không hơi đâu mà kể cho hết cái vô nghĩa của họ… Họ điên chăng? Nếu thế, chỉ có người điên mới hiểu mà thôi.
Coi như trên đó, Thông Reo có hề công kích Thơ mới không? Nếu Thông Reo có công kích Thơ mới thì tôi cũng xin nhận là tôi - Phan Khôi - có công kích Thơ Mới.
Không hề! Thật là không hề! Thông Reo chỉ công kích sự viết văn vô nghĩa mà thôi, chứ có hề công kích Thơ mới đâu?
Nguyên văn, Thông Reo nói: “Cái tai nạn gì thế? Chẳng có gì lạ, chỉ là viết văn không có nghĩa”. Thông Reo nhận cho sự viết văn không có nghĩa là một tai nạn của văn học.
Thế mà đến báo Tiếng dân, báo ấy nói rằng: “Ông Thông Reo (hiệu ông Phan Khôi) cho Thơ mới là cái tai nạn của văn học”!
Thế là Tiếng dân nói sai. Tôi xin cải chính”(7).
Ngay sau đó, Phan Khôi tiếp tục viết bài bào chữa, phản biện, nêu lý lẽ và phân tích rành mạch để khẳng định chính kiến của mình về giá trị thơ mới:
“Báo Tiếng dân gần đây có hai bài trong hai số tiếp nhau tuyên bố lên rằng ông Phan Khôi, là tôi, đã bắt đầu công kích lối Thơ Mới. Tôi thấy mà rất lấy làm ngạc nhiên. Tôi không hề có khi nào phản đối lối Thơ mới cả, cũng chưa từng bắt đầu nghĩ đến việc ấy, sao người ta lại hô lên như vậy?
Tôi là người đề xướng ra Thơ Mới, vì bài Tình già của tôi ra đầu hết; nếu lui một bước, tôi không nhận lấy cái danh người đề xướng thì ít nữa tôi cũng là một người trong những người đề xướng Thơ Mới, há có lẽ nào mới giáp mười năm mà tôi đã quay lại nó mà phản đối hay sao?
Sợ cho anh em trong làng Thơ mới không rõ đầu đuôi, tin lời báo Tiếng dân rồi chưởi tôi là thằng phản phúc, nên cực chẳng đã tôi phải viết bài nầy đính chánh, - đáng thương hại cho ngòi bút của tôi cứ luôn luôn là đính chánh.
Trong số 1594 báo Tiếng dân viết rằng: “Ông Phan Khôi trước có hùa vui viết Thơ mới một đôi bài… nay thấy trong làng Thơ mới của bọn trẻ có lắm bài vô nghĩa, trong Dân báo ông Thông Reo (hiệu ông Phan Khôi) có bài dưới mục “Chuyện hằng ngày” (số ra ngày 25/5/1941) cho Thơ mới là một cái tai nạn của văn học, xem đó đủ thấy giá trị Thơ mới ngày nay là thế nào”.
Đoạn đó ở trong “Lời nói đầu” của Việt ngâm thi thoại đăng ở số báo nói trên, dưới ký là Minh Viên.
Tiếp số sau, 1595, ra ngày 12/7/1941, nơi mục “Chuyện đời”, Chuông Mai viết: “Nhà túc học và tay đàn anh trong làng báo là ông Thông Reo (tức Phan Khôi) trước kia giữa phong triều Thơ Mới, nhớ như ông có viết một bài về cái đề “mua sò trên xe lửa”… Nhưng mới đây ông kinh hoảng mà la lớn: “Một tai nạn trong văn học” (bài nầy trong Dân báo ra ngày 25/6/1941), trong bài nầy ông chỉ vạch những câu vô nghĩa trong Thơ mới rất là rành rẽ. Xem đó đủ thấy trưng triệu đổ sụp của Thơ Mới. Chuông Mai rất biểu đồng tình với… bạn Thông Reo mà hô lớn rằng: Xứ ta còn sản xuất thứ Thơ mới là một điều vô phúc cho làng văn nước nhà”.
Xem đó, bạn đọc thấy Tiếng dân nói rõ ràng rằng tôi cho Thơ mới là một tai nạn của văn học và Chuông Mai tỏ ý muốn cùng tôi đánh đổ Thơ Mới. Mà nói như thế, báo Tiếng dân lấy chứng cứ ở đâu? Chỉ lấy ở bài đăng dưới “Chuyện hằng ngày” trong Dân báo của Thông Reo.
Thông Reo, báo Tiếng dân nói là hiệu của tôi, điều đó rất là vô lý, tôi không nhận. Tuy vậy, cho đi rằng Thông Reo tức là Phan Khôi nữa, thì cũng nên xem lại thử bài ấy Thông Reo nói những gì”(8).
Với tư duy sắc sảo, Phan Khôi đã có nhiều trang viết đặc biệt có giá trị về tác giả, tác phẩm và về phong trào thơ mới. Ông bình luận, trao đổi, tranh luận về thơ theo một cá tính, bản lĩnh và cốt cách riêng. Trước sau ông vẫn gắn bó, đề cao Thơ mới nhưng không phải không có lý khi ông sớm cảm nhận và bước đầu chỉ ra những dáng nét tân kỳ một cách cực tả đã dần hiện diện trong chính nền Thơ mới ấy.
3. Ngay giữa đương thời phong trào Thơ mới (1932-1945), một thế hệ các nhà thơ cũng như giới phê bình đã có nhiều lời bàn và đánh giá cao vị thế Phan Khôi trên cả tư cách người sáng tác, người khơi nguồn và mở đường cho Thơ mới phát triển.
Ngay sau khi Tản Đà cho in Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ trên báo Đông Tây tại Hà Nội, tác giả Thượng Minh hoan hỷ đón chào và bày tỏ niềm tin: “Xem bài Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ của Phan tiên sinh, đăng trong Tập văn mùa xuân của Đông Tây, trong óc tôi vụt nảy ra một tia hy vọng mới về lối thơ văn đó”(9)
Đương buổi ban đầu tiếp nhận tiếng Thơ mới Phan Khôi, Vân Bằng xác quyết Tôi thất vọng vì Phan Khôi và mát mẻ châm biếm:
... Ông Phan Khôi là nhà đại danh nho, đại tư tưởng, đại lý thuyết và lại là một tay đại “lô dích xiêng” nữa…
… Ông đã có phen hô hào cảnh cáo các nhà “học phiệt” làm cho quốc dân đã được hưởng cái thú đọc bài trả lời “mát mẻ” của ông Phạm Quỳnh.
Ông đã có phen đem tài hùng biện ra trước tòa án dư luận, làm trạng sư cãi “thí” để “thân oan” cho “bà vua” Võ Hậu đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui trong lúc “vạn cơ chi hạo” (theo lời ông).
Ông đã có phen đem lý thuyết về cuốn “lô gích” (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem cái thuật “xưng hô” ra dạy đời nữa.
Vừa đây, ông lại ra công “sáng chế” một lối thơ “tân thời, tự do đặc biệt”, không cần niêm luật, tự ý vắn dài, làm cho nhiều người “hoài cổ” ngậm ngùi thương tiếc “tấm vé” luật Đường. Có lẽ vì sự phát minh lối Thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
Đó là cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như lời ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng: “bạn Phan Khôi của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là “Léon Daudet” của Việt Nam.
Coi bấy nhiêu đó cũng đủ biết văn tài của ông Phan Khôi “cừ” lắm rồi cũng đủ cho quốc dân mừng?”(10)
Khác với Vân Bằng, thi sĩ trẻ Cô Liên Hương (Lưu Trọng Lư) lại đồng cảm, tin tưởng và hy vọng vào nguồn sáng Thơ mới qua Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tiên sinh sau khi đọc bài Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ:
“Cách đây đã lâu, tiên sinh có đưa trình chánh giữa làng thơ một lối Thơ mới. Tôi đọc bài ấy rồi tôi cứ đợi mãi, mà sau tiên sinh không thấy ai nối gót theo, mà chính tiên sinh hình như cũng không muốn giở dói đến việc ấy nữa…
Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa mà tiến lên đường.
Cái lối Thơ mới của chúng ta là đang ở vào cái thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi đến chỗ thành công hay là nửa đường bị đánh đổ. Đó là sự bí mật của lịch sử văn hóa mai sau! Dầu thế nào đi nữa, nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do phát triển thi ca, đưa thi ca đến chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân, dầu có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái công lớn: nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi chết.
Trong lúc ban đầu mà đã vội mong ước có những tay “thầy thơ” chân chính (Véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối “Thơ mới” kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước nhà lắm vậy”(11).
Thơ mới đang khơi dòng. Vì thế Chất Hằng Dương Tự Quán tiếp tục chỉ trích Phan Khôi và lối Thơ mới Phan Khôi trong bài Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi, hay là Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu:
“Người ít tình cảm thì sự cảm giác về cái bản ngã cũng kém cho nên Phan Khôi không hay làm thơ mà chỉ ưa nghiên cứu về thơ. Đôi khi Phan Khôi cũng làm thơ, nhưng thơ của ông cũng “hùng hổ” như ông... hay khắc khổ như văn xuôi của ông, hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình dáng của ông.
Có lẽ vì thế mà Phan Khôi muốn thay đổi cái hình thức của thơ mà xướng xuất ra một thể Thơ mới, nó thật ra chẳng mói chút nào, và cũng ít người cùng ông hưởng ứng”(12).
Nhìn từ một phía khác và có phần thiên về hình thức câu chữ, Thương Sơn trong bài Thơ mới là từ khúc lại cho rằng lối Thơ mới Phan Khôi chẳng có gì mới cả và chứng dẫn:
“Kể ra thì trong bài Con ve và con kiến cái lạ ở nơi cách bắt vần, cách này cũng hai câu một vần với nhau, đến hai câu khác lại vần khác, có giống như lối vần “liên tiếp” (rimes suivies) của Tây. Ấy, cũng vì cái giống ấy mà chúng ta tưởng lầm rằng, cách bắt vần này mới lắm, song kỳ thực trong văn Tàu nó đã có từ lâu, nó đã cũ, tôi nói cũ để khỏi nói xưa đó thôi.
Thì cứ xem bản dịch Tỳ bà của Tản Đà thư điếm cũng đã thấy cách bắt vần ấy rồi, nên bản Tỳ bà của cao Đông Gia ở tận đời Nguyễn. Đây xin trích mấy vần.
Thám hoa (đọc):
Bác chẳng thấy năm ngoái quan nghè Bùi?
Ngã ngựa đứt băng một bên đùi.
Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng,
Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông?
Ở đời có ba sự rất sợ,
Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa…
lại điệu từ “Bồ tát man” dịch đăng ở Nam phong:
Bảng lảng non vàng cảnh minh diệt
Mây in mái tóc, thân pha tuyết
Ủ dột nét mày ngài
Điểm trang cùng với ai?
Cánh hoa lồng trong kính
Mắt hoa cùng lấp lánh
Mới mẻ bức la nhu
Đôi chim ai thêu thùa?
cùng điệu “Mộc lan hoa”:
Đàn ai tiêu sái,
Khiến khách giang hồ tình ái ngại;
Lơ lửng trăng sân,
Bóng minh minh ngỡ bóng giai nhân...
chẳng phải là bắt vần như bài dịch của ông Vĩnh ru!
Tôi còn nhớ như bài Tình già cũ lắm lắm chứ có cũ vừa đâu! Ông Chất Hằng lại rõ thật là sơ ý. Ông không thấy rằng bài ông Vĩnh cũng bài cổ thể thứ hai mà ông chép ở đoạn sau bài là giống nhau lắm ư? Bài trên là một bài ngụ ngôn; cái lạ chắc không ở đó, mà ở cách bắt vần, song cách bắt vần lại giống bài dưới mất, nghĩa là người ta đã làm rồi, thì còn gì là sáng kiến nữa đâu! Họa chăng chỉ còn ở mấy chữ “suốt mùa hè”.
Từ trên tới đây, đó là tỏ một phần cũ của bài thơ ông Phan. Trước khi nói đến phần cũ khác của nó, ta hãy thử xem vì sao cách bắt vần “liên tiếp” nó đã có từ lâu rồi mà người ta lại ít làm tới, cho đến bây giờ người ta ngộ nhận rằng nó là “tân thời”. Ấy cũng vì nó không hay gì cho lắm không êm ái bằng cách bắt vần như thơ Đường vậy, ấy nó cũng sắp vào vòng “đào thải” rồi.
Ông Chất Hằng chép bài Tình già sai với nguyên văn, nên chỉ chú đến cách bắt vần, mà không biết đến cái tự do của nó. Như thế, những người đã “lại đem cái vấn đề Thơ mới ấy đặt lên thảm xanh” chắc sẽ không khỏi nói qua nói lại. Vậy xin thay ông chép lại mấy câu thơ gốc của “lối mới” rồi chỉ một chỗ “cũ” khác của nó, mà chỗ này quan hệ hơn.
Hai mươi bốn năm xưa
Một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ
Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở
Ôi! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng.
Mà lấy nhau hẳn đà không đặng,
Để đến nỗi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau…
Đọc bài ấy rồi, độc giả đọc bài này:
Lá liễu xanh,
Hoa hồng đỏ
Trăng rạng tỏ.
Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ,
Ai to nhỏ?
Vườn xuân cỏ cây tươi tốt,
Khí xuân đầm ấm đương hòa,
Dan díu cùng ai lời thề thốt,
Hẹn dưới hoa.
Ở trên bài đây, ta nếu thử đề rằng Thơ mới mà gửi cho mấy tờ báo vẫn chắc rằng lối “thơ Phan Khôi” là mới, họ sẽ đăng ngay, vì nó có theo luật lệ gì đâu, người ta cũng tự do đặt nó ra, nó là thơ “mới” vậy. Nhưng nó “mới” từ độ mười năm nay; trong Hữu thanh khi xưa, tôi đã thấy trích ở trong bài nói về từ khúc của ông Nguyễn Ửng, nó là Từ khúc vậy. Từ khúc lúc ấy rất thịnh trong thi ca. Ấy là một lối thơ tự do, nhưng “tự do” ở trong “giới hạn” âm nhạc câu thơ, tự do phải đường”(13).
Trong bài Một cuộc cách mạng trong làng thơ, Việt Bằng đặt câu hỏi về lối Thơ mới sẽ có ảnh hưởng xấu hay tốt trong làng thơ Nam Kỳ và đi sâu phân tích cuộc cạnh tranh giữa hai phái mới - cũ xét từ hiện tượng Phan Khôi:
“Một người có bộ óc cách mạng, muốn phá tan những khuôn khổ củ kỷ kia, để đem hồn thơ thi sĩ Việt Nam ra một cõi thanh thoảng hơn. Nhà cách mạng ấy là ông Phan Khôi. Ông là người xướng lên "một lối thơ mới". Ngoài Bắc, họ gọi lối thơ ấy là "thơ Phan Khôi".
Lối thơ nầy, ai cũng muốn đặt sao cũng được, không cần niêm luật như thi Đường, không cần phải có đối, có vần, cũng chẳng cần có số chữ nhứt định. Đặt làm sao cho đọc lên nghe xuôi tai thì thôi. Lối thơ Phan Khôi ra ngoài Bắc không được mấy người hưởng ứng. Có người trong báo Đông Tây độ nọ, đã bắt bẻ bài thơ Tình già của ông Phan Khôi và cho rằng làm hay đặt một bài như thế, không thể gọi là một bài được. Người ấy nói gẫm cũng có lý, nhưng ông Phan Khôi đã cho một vố nặng, chê tác giả bài ấy có cái óc thủ cựu quá, không chịu cải cựu hóa tân.
Ở Bắc, ở Trung, chẳng mấy người hoan nghinh cuộc cách mạng của ông Phan Khôi. Có hoan nghinh chỉ là ở xứ Nam Kỳ nầy!
Thơ mới! Thơ mới! Các thi sĩ Nam Kỳ nổi lệnh đánh đuổi phái cổ điển. Vườn Thơ mới sanh sôi nảy ra nhiều lắm. Thấy vậy, có bạn đồng nghiệp bảo: “Nam Kỳ đã có dịch thơ mới!”. Có bạn lại hâm hở binh vực lối thơ mới.
Công cuộc cách mạng còn dở dang, ông Phan Khôi đã rút dù từ giã làng văn, để lại đồ đảng khá đông. Đồ đảng thờ chủ nghĩa "thơ mới" đương ghìm chống với bạn cổ điển. Ai cũng có cái lẽ phải hết. Bên nào sẽ chiến thắng?…
Theo cái thấy ở hiện tại, các nhà thi sĩ binh vực lối Thơ mới chưa dễ gì đánh đuổi phái cổ điển đâu! Một đàng có gốc vững, còn một đàng thì thiếu sức. Cái óc mới không qua cái óc cũ!
Đứng ở ngoài vòng của cách mạng nầy, ta thử hỏi: Lối Thơ mới sẽ có ảnh hưởng tốt hay xấu trong làng thơ Nam Kỳ? Thi sĩ óc mới có thể nối chí nhà thơ đề xướng cuộc cách mạng chăng?
Lấy thiệt tế mà bàn, đem hết các nhà thi sĩ óc mới ra, hỏi ai được bộ óc Phan Khôi chăng? Hỏi thử ai bắt chước được đúng chăng? Chưa dễ tìm được một người đồng chí!”(14)
Cuối cùng người viết đi đến dự đoán một kết cục bi quan: “Không khéo hồn thơ ta tiêu tán mà làng thơ ta phải trải qua một thời kỳ rối beng, hỗn độn”.
Trong tiểu luận Phong trào thi ca mới: Khuynh hướng - hiện trạng - đặc sắc - khuyết điểm có ý nghĩa tổng kết cho chặng đường đầu của phong trào thơ mới, Hà Nhân (Trần Thiêm Thới) xác định vị thế người mở đường Phan Khôi:
“Ngày trước, trong Phụ nữ tân văn, muốn cổ động cho lối thơ mới, ông Phan Khôi đưa bài Tình già của ông ra với những câu:
Hai mươi bốn năm xưa
Một đêm vừa gió lại vừa mưa…
Nghe nó chẳng cảm xúc được gì cả. Tiếp tay với ông Phan, Manh Manh nữ sĩ đẩy ra một tràng thơ mới nữa, nhưng nó chỉ được cái mới chớ không có cái hay.
Nếu chẳng có báo Phong hóa hợp sức vào thì việc cổ động biết đâu sẽ chẳng thất bại.
Binh vực và truyền bá thơ mới được hiệu quả nhiều, bọn thi sĩ mới của báo Phong hóa có công to lắm”(15)
Điều đặc biệt là trong tác phẩm Tình già trên dòng sông Nhuệ mang tính hỗn dung giữa các thể văn phóng tác, diễn dịch, giễu nhại, hai tác giả V.T - T.K cho in lại toàn văn bài thơ Tình già của Phan Khôi, sau đó mô phỏng trong hình thức một thiên hồi ký, một truyện ngắn, kể lại câu chuyện tình dang dở trên dòng sông Nhuệ (Hà Đông), đi từ “Hai mươi bốn năm xưa…” qua “Hai mươi bốn năm sau…” rồi trở lại “Hai mươi bốn năm xưa”… Đây là đoạn kết của thiên truyện:
... Thế mà, hai mươi bốn năm xưa!
Trên dòng sông Nhuệ, một con thuyền lơ lửng trôi đi. Làn gió thổi, đám mây bay, chị Hằng khi mờ khi tỏ, lẳng lơ soi mình xuống mặt nước trong! Chừ xa xa vài tiếng chó sủa giăng và mấy hồi chuông chùa vẳng lên khoảng không vô hạn, bốn bề đều im lặng như tờ!...
Trên dòng sông Nhuệ, con thuyền vẫn lơ lửng trôi đi! Bên mạn thuyền, một đôi trai gái tựa mình, ngồi ngắm dòng nước bạc. Thiếu nữ ngồi nhìn bóng mà ngẩn ngơ, tiếc cho tấm thân liễu yếu đào tơ mắc vào vòng tình lụy, biết bao giờ gỡ thoát được ra?
Đời là đời, mà tình là tình, cái sự thật nó vẫn khác xa, nó vẫn tục tằn, đau đớn hơn vòng mộng ảo!(16).
Trong chiều hướng Thơ mới đang ngày càng chiếm được ưu thế, nhà phê bình Lê Tràng Kiều tiếp tục mượn chuyện Phan Khôi để tấn công các nhà thơ cũ và khẳng định chiến thắng của đội ngũ thơ mới:
“Cách đây đã 6, 7 năm, lần đầu tiên ở trong Đông Pháp thời báo, ông Phan Khôi là một nhà nho “thoát ly”, quay giáo đánh lại Đạo Nho, viết nhiều bài để mạt sát Đạo Nho, hình như cốt khêu tức mấy nhà nho chơi, thế rồi mà, đáng phục thay, các nhà nho vẫn hững hờ như không. Không có một ai chạy ra tiếp chiến, đến nỗi bên nghịch đánh mãi ở chỗ không, chán phải kêu: “Tình đời bạc bẽo thay!” .
Ý ông Phan bảo rằng: nhà nho hèn nhát đến nỗi một cái đạo lý nuôi sống mình mấy nghìn năm bây giờ bị nạn cũng không ai ra cứu chữa.
Kể thì tình đời bạc bẽo mà người đời hèn nhát thật! Nói như trong một vấn đề “Thơ mới thơ cũ” đây ta cũng có thể thấy cái tâm lý ấy một cách rõ rệt. Thử hỏi từ khi có phong trào “thơ mới” ở Bắc Kỳ này, trong phái thơ cũ, bị người ta đưa ra công kích, có ai dám đường hoàng viết lên báo, lên sách, một bài cỏn con để tự bào chữa cho mình, có ai dám đường hoàng bài trừ Thơ mới mà theo các ông, là một cái dịch đáng sợ (…).
Nhưng, tôi cần phải phân vua với các bạn một điều rằng: Với phái thơ cũ, không cần đến người như tôi ra tiếp chiến: đã có những ngọn kiếm hùng mạnh thay tôi, ra mà chống cự với địch quân. Một người như tôi chỉ đáng ở nhà “khua chiêng đánh trống” để ẩy người khác ra đánh thay mình mà thôi.
Tôi sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt: ông Thái Can, ông Nguyễn Vỹ, ông Nhược Pháp, ông Thế Lữ, ông Huy Thông, ông Lưu Trọng Lư…
Nếu trên mặt trận văn học sau này, họ cắm lá cờ Thơ mới, thổi khúc khải hoàn: thì công ấy hoàn toàn là công của họ vậy”(17)
Thực tế cho thấy, vào thời kỳ toàn thịnh của phong trào Thơ mới (1936-1939), cả giới sáng tác và phê bình đều say sưa trong chiến thắng, mải mê với những thi phẩm đang xuất hiện hàng ngày trên thi đàn mà không nói nhiều, không bàn nhiều và cũng không cần nhớ nhiều đến người khơi nguồn thơ mới. Chỉ đến khi phong trào Thơ mới đã dần đi vào chặng cuối, khi cần soát xét, tổng kết lại cả nền thơ, học giới mới thức tỉnh và có nhu cầu ôn lại lịch sử, nhận diện rõ hơn vị thế Phan Khôi trên lịch trình thơ mới.
Trong bài tổng quan Một thời đại trong thơ ca mở đầu sách Thi nhân Việt Nam, hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân đặc biệt nhấn mạnh vị thế Phan Khôi cùng bài thơ Tình già mở đầu cho phong trào Thơ mới:
“Ta hãy tìm những nguyên nhân gần gụi hơn cùng những triệu chứng của phong trào Thơ mới.
Đã lâu, người mình làm thơ hầu hết chỉ làm những bài tám câu, mỗi câu bảy chữ. Theo Ô. Phan Khôi, lỗi ấy phải quy cho khoa cử (…).
Nhưng một ngày kia cuộc cách mệnh về thi ca đã nhóm dậy. Ngày ấy là ngày 10 mars 1932 (Tức là ngày xuất bản tờ Phụ nữ tân văn số 122 trong ấy có bài Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ). Lần đầu tiên trong thành trì thơ cũ hiện ra một lỗ thủng. Ô. Phan Khôi hăng hái như một vị tướng quân, dõng dạc bước ra trận. Ông tự giới thiệu: “Trước kia... ít ra trong một năm tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Nôm; mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được”. Ấy thế đó mà ông kết án thơ cũ! “Thơ cốt chơn. Thơ cũ bị câu thúc quá nên mất chơn”. Bởi vậy ông bày ra một lối thơ “Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết” và tạm mệnh danh là thơ mới.
Hồi bấy giờ Phụ nữ tân văn đương thời cực thịnh. Những lời nói của ông Phan được truyền bá đi khắp nơi. Cái bài Thơ mới Tình già ông dẫn ra làm thí dụ, không rõ có được ai thích không, nhưng một số đông thanh niên trong nước bỗng thấy mở ra một góc trời vì cái táo bạo giấu giếm của mình đã được một bực đàn anh trong văn giới công nhiên thừa nhận.
Lần lượt những bài thơ mới, vốn làm từ trước, được đưa lên mặt báo. Người hưởng ứng nhất là Ô. Lưu Trọng Lư. Sau khi đăng bài của Ô. Phan Khôi chẳng bao lâu, Phụ nữ tân văn nhận được một bức thư hoan nghênh ký cô Liên Hương (Faifo), một bài Thơ mới Trên đường đời ký Lưu Trọng Lư và một bài nữa Vắng khách thơ ký Thanh Tâm. Ký nhiều tên cho rộn thế thôi chứ đi lại cũng chỉ một người. Tình già, Trên đường đời, và Vắng khách thơ là ba bài mang tên Thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài ấy thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Kế đó, Phụ nữ tân văn còn đăng Thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh (tức Nguyễn Thị Kiêm), của Hồ Văn Hảo và nhiều người nữa.
Nhưng rồi phong trào Thơ mới chuyển ra đất Bắc và được một cơ quan ngôn luận khác ủng hộ một cách đắc lực hơn”(18)
Mới chỉ mười năm, chưa đầy mười năm, câu chuyện Phan Khôi và vị thế người khơi nguồn Thơ mới dường như đã mang hơi hướng lịch sử, cảm hoài về cái buổi ban đầu vừa linh thiêng vừa bình dị đến thế. Theo Hoài Thanh - Hoài Chân, Phan Khôi đã đóng vai trò người nhóm lửa, người khởi đầu, người mở đường và hoàn tất sứ mệnh đặt nền móng cho cả một thời đại thi ca. Ông chấm dứt vị thế của mình ngay sau tiếng trống khai mạc cho nền thơ nhưng dư âm của nó còn vang vọng qua suốt thời thơ mới.
Trong công trình tổng thành Nhà văn hiện đại hướng đến tổng kết toàn diện nền văn học nửa đầu thế kỷ XX, Vũ Ngọc Phan có riêng mục từ Phan Khôi, trong đó nhấn mạnh vị thế của ông trong phong trào thơ mới, đánh giá cao vai trò người khơi nguồn cũng như khách quan chỉ ra những hạn chế, những bước đi không theo kịp thời đại:
“Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học. Ở một nhà văn cựu học như ông, người ta đã thấy nhiều cái rất mới, nhiều cái mà đến nhiều người tân học cũng phải cho là “mới quá”. Đó thật là một sự chẳng ngờ…
… Phan Khôi không chỉ là một tay thợ thơ, chỉ lúc có hứng ông mới làm, nên thơ ông không nhiều, nhưng làm bài nào tư tưởng đều thành thực, ý tứ dồi dào, dễ cảm người ta. Về thơ cũ, mấy bài thơ trên này đủ chứng cho ông là một thi sĩ có tài năng vững chãi, ngày nay đã trở nên rất hiếm trong làng ngâm vịnh. Còn về Thơ mới lại chính ông là người khởi xướng trước nhất.
Bài Thơ mới Tình già của ông đăng đầu tiên trong Phụ nữ tân văn (số 122, ra ngày 10 Mars 1932), báo Phong hoá số Tết năm Quý Dậu (24 janvier 1933) có trích đăng bài ấy như sau này (…).
… Bài này sở dĩ được truyền tụng trong đám thanh niên trí thức mà gây nên phong trào Thơ mới là vì ý, không phải vì âm điệu. Người ta thấy một khi thơ thoát được những câu luật bó buộc và cân đối thì có thể diễn được nhiều ý hơn. Điều đặc biệt trong bài thơ trên này là tính tình ăn theo với màu sắc rồi tính tình và màu sắc đều chung đúc cả trong một cảnh thiết tha và ảm đạm. “Ngọn đèn mờ”, “Hai cái đầu xanh”, “Đôi cái đầu bạc”, đó là những màu sắc rất thích hợp với tính tình của đôi nhân ngãi “Hai mươi bốn năm xưa” và “Hai mươi bốn năm sau”; rồi những lời than thở của hai người đều tỏ ra một mối tình khăng khít, chả có hai mươi bốn năm sau, nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra nhau! Mối tình già mà diễn ra được như thế, thật vô cùng cảm động.
Phan Khôi còn có hai bài Thơ mới nữa, nhan đề là Hai cảnh trên xe hoả, nhưng hai bài này kém hẳn bài trên. Tuy đều có ngụ ý, nhưng về lời thì không còn phải là thơ nữa: lời vừa khô khan, vừa nghèo âm điệu. Những câu như:
Người mua ăn sò ái ngại thay,
Muốn trả tiền mà trả cho ai!
thì thật là không khác gì hai câu văn xuôi. Cả những câu này ở bài sau cũng thế, lại thô và cộc nữa:
Xe cứ chạy,
Lũ trẻ cứ làm như ban nãy,
Hành khách trông thấy vẫn lặng thinh.
Dù biết chúng nó chửi chúng mình.
Đó là Phan Khôi thi sĩ”(19)...
Trong tầm nhìn của người đương thời, Phan Khôi hiện lên trong tư cách người khai sáng, mở đường phong trào Thơ mới cả trên phương diện sáng tác cũng như khả năng tự ý thức về thơ và về lối thơ mới, phong trào thơ mới. Người đương thời đã cảm nhận, đánh giá khách quan, chính xác về ông, cả về những đóng góp đột xuất cũng như những giới hạn lịch sử mà ông khó có thể vượt qua.
*
Việc đánh giá về Phan Khôi gắn với phong trào Thơ mới (1932-1945) từng diễn ra qua nhiều khúc quanh, nhiều biến động, theo nhiều cách thức và từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Căn cứ trên hệ thống văn bản tác phẩm của chính Phan Khôi cũng như ý kiến của người đương thời phong trào Thơ mới đánh giá về Phan Khôi có thể thấy ông là vị thủ lĩnh, vị tướng tiên phong, người lĩnh xướng dàn đồng ca thơ mới. Đương nhiên nếu không có Phan Khôi thì vẫn có phong trào Thơ mới nhưng nhờ điểm tựa Phan Khôi, cú hích Phan Khôi, trực giác Phan Khôi, tài năng Phan Khôi mà nền Thơ mới đã có ngày khai sinh, mở ra một thời đại mới trong nền thơ Việt Nam. Thêm nữa, vẫn biết rằng Phan Khôi không có thêm sáng tác mới, không đóng vai trò chủ tướng phê bình Thơ mới trong giai đoạn sau nhưng người đương thời vẫn luôn ghi nhớ và đánh giá cao vị thế người giữ vai trò đặc biệt trong phát pháo hiệu mở đầu một thời đại thi ca. Tên tuổi Phan Khôi mãi mãi gắn với vị thế người mở đường, người dẫn đường, người khai sáng nền Thơ mới dân tộc và hiện đại, đưa nền thơ Việt Nam thực sự bước vào thời kỳ hội nhập Đông - Tây, phát triển trong toàn cảnh bức tranh và tiến trình lịch sử văn học toàn thế giới.
Hà Nội, tháng 10-2014
Nguyễn Hữu Sơn
-----------------------
Tài liệu tham khảo:
(1) Xin xem Nguyễn Hữu Sơn: - Phong trào Thơ mới như một diễn ngôn lịch sử (1932-1945). Nghiên cứu Văn học, số 11-2013, tr.41-58.
- Đặc điểm tựa, bạt ở các tập thơ thời Thơ mới, trong sách Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. NXB Thanh niên, H., 2013, tr.121-133.
(2) Phan Khôi: Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ. Đông Tây, số Xuân, 1932…
(3) Phan Khôi: Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ. Phụ nữ tân văn, số 122, ra ngày 10-3-1932...
(4) Phan Khôi: Về lối Thơ mới sau bài Tình già: vừa mở ra đã có người lo cột lại. Đông Tây, số 154, ra ngày 12-3-1932...
(5) Ngọa Du Nhân: Thơ của Nam Trân. Sông Hương, số 3, ra ngày 15-8-1936, tr.5.
(6) Phan Khôi: Tôi với Tản Đà thi sĩ. Tao đàn, số 9+10, ra ngày 16-7-1939…
(7) Phan Khôi: Một tai nạn của văn học. Dân báo, s ra ngày 25-6-1941…
(8) Phan Khôi: Báo Tiếng dân nói sai, tôi không hề công kích Thơ Mới. Dân báo, số 627, ra ngày 23-7-1941…
(9) Thượng Minh: Đôi lời về lối Thơ mới của Phan Khôi. Đông Tây, số 147, ra ngày 17-2-1932...
(10) Vân Bằng: Tôi thất vọng vì Phan Khôi. An Nam tạp chí, số 39, ra ngày 30-4-1932…
(11) Cô Liên Hương: Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tiên sinh sau khi đọc bài Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Phụ nữ tân văn, số 153, ra ngày 27-6-1932. In lại trên Phong hóa, số 31, ra ngày 25-1-1933, tr.16.
(12) Chất Hằng Dương Tự Quán: Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi, hay là Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu. Văn học tạp chí, số 18, ra ngày 1-6-1933…
(13) Việt Bằng: Một cuộc cách mạng trong làng thơ. Lục tỉnh tân văn, số 4438, ra ngày 20-6-1934…
(14) Thương Sơn: Thơ mới tức là từ khúc. Văn học tạp chí, số 24, ra ngày 1-9-1933.
(15) Hà Nhân: Phong trào thi ca mới: Khuynh hướng - hiện trạng - đặc sắc - khuyết điểm. Sống, số 28, ra ngày 7-9-1935...
(16) V.T - T.K: Tình già trên dòng sông Nhuệ. Hà Nội báo, số 14, ra ngày 8-4-1936, tr.5-7.
(17) Lê Tràng Kiều: Thơ mới.Hà Nội báo, số 19, ra ngày 13-5-1936, tr.20-21.
(18) Hoài Thanh - Hoài Chân: Một thời đại trong thi ca, trong sách Thi nhân Việt Nam. Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942... Tái bản. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1989, tr.20, 22-24.
(19) Vũ Ngọc Phan: Phan Khôi (Biệt hiệu Chương Dân), trong sách Nhà văn hiện đại, Quyển nhì. Nxb. Tân dân, Hà Nội, 1942… In lại trong Vũ Ngọc Phan - Tác phẩm, Tập IV. Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000, tr.85-104.  



[1] Vì tầm quan trọng của tác phẩm Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ nên chúng tôi in lại toàn văn, lấy bản in trên báo Đông Tây làm bản trục và có chú thích, khảo dị những chữ sai khác so với bản in trên Phụ nữ tân văn (Sài Gòn, số 122, ra ngày 10-3-1932, tr.15-16).
- PNTV: thì hơn (NHS chú).
[2] PNTV: sực nhớ (NHS chú).
[3] PNTV: ông vậy (NHS chú).
[4] PNTV: năm bảy (NHS chú).
[5] PNTV: năm bảy (NHS chú).
[6] PNTV: thì kể (NHS chú).
[7] PNTV: choán (NHS chú).
[8] PNTV: thật đà (NHS chú).
[9] PNTV: Lược bỏ đoạn:  “À, có rồi,… tôi không thích” , có ký chú một dòng đặt trong dấu đơn: (Bị bỏ một đoạn dài) (NHS chú).
[10] PNTV: Lược bỏ  “như bài Dân Quạ đình công đây”  và thay bằng đoạn dấu ba chấm (…) (NHS chú).
[11] PNTV: chớ nếu (NHS chú).
[12] PNTV: Lược bỏ câu: “Như bài Dân quạ đình công đó… hay gì” và thay bằng đoạn dấu ba chấm (…) (NHS chú).
[13] PNTV: người thứ nhứt làm ra việc nầy (NHS chú).
[14] PNTV: một chỗ (NHS chú).
 

No comments:

Post a Comment