Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday 1 November 2016

LÊ QUANG VINH =NUÔI CỘNG SẢN=NGÔ ĐÌNH DIỆM =

LÊ QUANG VINH * NGÀY GIỖ MẸ

NGÀY GIỖ CỦA BÀ MẸ KHỔ ĐAU MỘT THỜI CỦA  NHÀ BÁO LÊ QUANG VINH  
 
 
Bạn đọc thân mến! Hôm nay, Ngô Minh nhận được bức thư vô cùng xúc động của người bạn cùng quê, cùng cơ quan Báo Thương Mại cũ - Nhà báo Lê Quang Vinh, nhân ngày giỗ của Mẹ mình. Anh Lê Quang Vinh kể về nỗi đa đoan, khốn khổ của Mẹ thời CCRĐ; làm thơ tưởng nhớ sau bao năm xa Mẹ, với nỗi buồn nhớ của một đứa con luôn đặt chữ Hiếu lên đầu... Dù thư riêng, nhưng Ngô Minh xin đưa lên "QUÀ TẶNG XỨ MƯA" để bạn đọc bốn  phương cùng chia sẻ.

  Thư gửi Thi sĩ Ngô Minh!

                                                            Hà Nội, ngày 30/10/2015
      Hôm nay, 18/9/Ất Mùi (30/10/2015) – Ngày Kỵ Mự (giỗ mẹ) Lê Quang Vinh – Cụ Ngô Thị Kiêm (29/9/1906 - 28/10/1988). Mự tôi mất nay đã 27 năm, thế nhưng thường nhật, tôi vẫn luôn nghĩ như mới hôm qua, hôm kia thôi. Thương nhớ Mự mà không chút nguôi ngoai được Ngô Minh ạ.

           Thương Mự tôi, góa bụa nuôi đàn con bảy đứa một mình. Con trai con gái mới chớm lớn, đã xua đi kháng chiến (chị cả Lê Thị Toán 21 tuổi - hoạt động tại địa phương vùng đich hậu, chị gái thứ 2 Lê Thị Hạnh Phúc 18 tuổi - Bí thư phụ nữ huyện Quảng Trạch rồi được điều ra Việt Bắc công tác, anh Lê Phương - 15 tuổi tòng quân vào Trung đoàn 18 Quảng Bình, 16 tuổi vào Đảng “Khi trên đầu 16 tuổi xuân/ Mang danh hiệu quang vinh đồng chí!” – xem “BÍ ẨN BỨC HÌNH MỘT NGƯỜI LÍNH ĐIỆN BIÊN THỜI CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT”). Hòa bình lập lại trên miền Bắc năm 1954, sau chuỗi năm tháng đợi chờ các con mòn mỏi, thì đại họa Cải cách ruộng đất (CCRĐ) ập đến, giáng lên đầu Mự tôi cái án oan khốc “địa chủ”!. Trong hồi ký về Mự (chưa in), tôi đã có những dòng đẫm nước mắt:

   …“Trong cơn lửa đạn của đất nước, thì chồng Bà lâm bạo bệnh và qua đời ngày 26/11/1948 (tức ngày 26/10/năm Mậu Tý). Hai cô con gái đầu đã đi lấy chồng và thoát ly, con trai lớn tòng quân, một mình Bà với bốn con thơ dại (LQV mới 18 tháng). Kinh tế gia đình bị sa sút. Lại những năm tháng đầy gian nan và lo âu đến với Bà – Nỗi lo của người mẹ góa dõi theo bóng hình của hai người con đi kháng chiến.
              Tai ương tiếp tục ập đến vào những năm 1954, 1955, 1956… Số phận của Bà bị cuốn vào những nỗi khổ đau khôn cùng: mẹ chồng là Cụ Đoàn Thị Diệp bị chết đói (xem “ĐÁM TANG MỆ NỘI TÔI , NGHỊCH LÝ TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT”); cha đẻ là Cụ Ngô Nhật Tuyên bị cầm tù và mất ở phương trời nào bà không thể hình dung được (Xem “Đọc bài “BỐ NGÔ MINH 57 NĂM NAY HỒN KHÔNG NHẬP XÁC” ); các con lớn gần như ly tán với mình; các con nhỏ đói rách, lầm than và thất học; mẹ kế và là dì ruột là Cụ Lê Thị Quy cùng các em Ngô Quang Thiệt, Ngô Thị Thà, Ngô Quang Chân phải đi ở…Than ôi, củ chuối, ngọn khoai lang, cám thóc lép đã cứu mạng sống của bà và các con trong những năm tháng đó, hay chính là “Hồng phúc” cua Ông bà - Tổ tiên phù hộ cho Bà và các con được sống !(?)



             Mùa xuân năm 1968, Bà ra Hà Nội sống với các con. Gần 20 năm xa quê hương, không một ngày nào Bà không hướng vọng về Tổ tiên - Ông bà, nơi chôn rau cắt rốn. Nỗi đau dai dẳng phủ tràn tâm hồn và trái tim bà đến phút cuối cùng của cuộc đời là cái chết thê thảm của người Cha:
         “Mẹ đi mắt hãy còn chau
  Chắc rằng còn nặng nỗi đau cửa nhà
         Đất bằng cuộn sóng Hồn Cha
Ba mươi năm ấy…
                             Vẫn là hôm nay
      (Một đoạn thơ của con trai út khóc khi Bà mất)
           Những năm tháng khi Bà tuổi cao sức yếu, con trai trưởng Lê Phương cùng các con cháu một bề phụng dưỡng. Bà có hai người con dâu và cả hai đều được bà tin cậy, yêu quý như chính con gái mình. Bà dành cho những người con rể tình cảm không khác người mẹ đẻ. Bà vô cùng sung sướng khi thấy anh chị em trong gia đình đoàn kết, thực sự yêu quý nhau. Đàn con cháu nội – ngoại được hưởng bao tình quý báu và sự chăm lo từng quả trứng, chai nước mắm, lạng tôm khô, khúc thịt rim, cân cá bông (ruốc cá)…tự tay bà kho nấu rồi mang xách tận Hòa Ninh -  Quảng Bình khi mỗi bận ra Hà Nội thăm con cháu. Tình yêu các cháu như một nhu cầu vô bờ, có lẽ nhu cầu đó đã phần nào làm dịu bớt những mất mát, nguôi ngoai nỗi đau khi đứa con gái thứ tư Lê Thị Châu mất sớm (vừa được 4 tuổi – mất ngày 26/6/Mậu Thìn – 1938) hằn sâu trong tâm khảm Bà.
            Than ôi! Số phận con người ta “sinh sinh, hóa hóa; nợ tử sinh là lẽ
thường tình”, không thể có ai nằm ngoài quy luật đó. Nên chi một buổi chiều mùa Thu cách đây 20 năm (thời điểm hiện tại 30/10/2015 đã là 27 năm), Bà Ngô Thị Kiêm, sau hơn một năm bệnh nặng, đã nhẹ bước đi vào giấc ngủ vĩnh hằng bên người con trưởng – Đại tá Lê Phương và nhiều con cháu khác tại nhà số 5, dãy N3, Tập thể “Quân chủng Phòng Không – Không quân”, làng Hòa Mục, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội. Thời khắc đặc biệt đó là 17 giờ 30’, ngày 28/10/1988 – tức 18/9/Mậu Thìn. Như vậy, Bà được sinh ra vào mùa Thu tại quê hương làng Lộc Điền, Bà ra đi cũng chính vào mùa Thu ly quê ở Thủ đô Hà Nội, sau 82 mùa Thu hưởng Dương – Thọ 83 tuổi Trời (ngày sinh và ngày mất của Bà Ngô Thị kiêm lệch nhau đúng 1 tháng).
            Chúng ta nghiêng mình bái lạy Tổ tiên - Ông bà đã khéo hun đúc để sinh ra một người con hiếu hạnh, đẹp người đẹp nết; song toàn từ lý trí đến nhân cách; sống hết mình vì gia tộc, cha mẹ, con cháu và quê hương đất nước.
            Chúng ta rạp mình cảm ơn mảnh đất hiện là nơi tá túc của gia đình người em trai út của Bà Ngô Thị Kiêm là ông Ngô Quang Chân – Mảnh đất tại làng Lộc Điền linh thiêng – Mảnh đất nhỏ bé còn sót lại của Tổ tiên sau bao biến thiên của sóng gió lịch sử (thời CCRĐ); đã cho chúng ta cơ hội cùng tụ họp đúng ngày 29/9/2006 để kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Bà Ngô Thị Kiêm – Một thế kỷ của một số phận, một cuộc đời và một trái tim nồng cháy đã thắp sáng, mãi mãi thắp sáng tâm hồn mỗi một con cháu chúng ta!
                           “Sinh ra từ mùa Thu Lộc Điền,
                                        trở về mùa Thu Hà Nội;
                                                  Trăm năm thương nhớ dõi theo Người…”
               (Tít chính trên phông “Lễ Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Cụ Ngô Thị Kiêm”)
           Sinh thời, Bà Ngô Thị Kiêm thường hay ngâm những câu thơ Kiều tuyệt hay. Có những câu như vận vào phận số Bà. Nay nhớ lại, vẫn còn day dứt lòng dạ chúng ta:
                         ...“Nợ tình chưa trả cho ai?
                     Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
                            Nỗi riêng, riêng những bàng hoàng                          
                     Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”…
               (Tôi vẫn còn nhớ Mẹ ngâm: “Nợ tình biết trả cho ai?”)
  Đoạn thơ mô tả tâm trạng Thúy Kiều sau khi buộc phải bán mình để cứu cha và em trai; chuẩn bị lên đường theo Mã Giam Sinh bắt đầu dấn thân vào cuộc trầm luân kéo dài ngót 15 năm lưu lạc. “…
                                                      Con trai: Lê Quang Vinh
                                 Cung lục – Bản sửa lúc 21 giờ, ngày 20/12/2012
         Bài thơ tôi làm sau 15 năm ngày giỗ Mự, nỗi nhớ thương dường như vẫn còn nguyên vẹn Ngô Minh ạ.
MƯỜI LĂM NĂM…MẸ ƠI!
        15 năm ngày giỗ Mẹ
            18/9/Mậu Thìn (1988) - 18/9/Quý Mùi (2003)
Mười lăm năm Mẹ rời cõi thế
Nỗi niềm con thương tiếc chẳng hề nguôi
Ôi một thuở tròn lưng trong lòng Mẹ
Tuổi thơ con đi suốt cả đời…
Có đêm lạnh bỏ nhà làm Mẹ khóc
Câu Kiều (1) xưa  khua dậy tâm hồn con
Chiếc đòn gánh tre bao mùa đổi thóc (2)
Nồi “cháo canh” tần tảo sớm hôm
Chợ Đồn chiều nào con “Siêng” (3) lạc
Cả nhà buồn da diết một cơn mưa
Đêm đói bạc hồn hồi “Cải cách”
Giết mèo (4) ăn đau đến mấy mùa
Thắp nén nhang cầu lạy Mẹ linh thiêng
56 tuổi con chưa đền được hiếu
Xưa Mẹ buồn mỗi lần rũ chiếu (5)
Nay mong Người yên ổn chút lòng riêng…
                          13/10/2003
Đôi điều dẫn giải chia sẻ cùng bạn đọc:
1/ Một hôm vào giữa trưa, đang giã bột gạo nếp cho Mự (Mẹ) để làm bánh rán bán thường ngày (hồi mới lên 7 – 8 tuổi), thì có đám tang của người trên Thành (xóm Đạo trong làng) đi ngang qua trước nhà; tôi liền bỏ việc theo coi đến cùng cả buổi. Khi về, bột bị chó ăn hết. Sợ Mự mắng, tôi liền trốn rồi trèo lên cây khế sau nhà đến tối mới mò vô và chỉ dám ngồi ngoài thềm. Ở dưới nhà ngang, ngọn đèn dầu lạc treo trên chạc song (dây căng treo áo quần bằng sợi mây tắt) sáng lờ mờ. Mự tôi nằm trên vọng (võng), ngâm mấy câu thơ (than kiểu giọng Bắc ấy), mãi về sau tôi mới biết đó là những câu Kiều của cụ Nguyễn Du: Nợ tình chưa trả cho ai,/ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”.
2/ Sau “Cải cách ruộng đất” , Mự nấu cháo canh, làm bánh trái đi tới đi lui các làng Minh Lệ, Diên Trường; các xóm trong xã nhà: xóm Vụng (làng Vĩnh Lộc), An Vĩnh, Thành, Cao Cựu (làng Hòa Ninh)…đổi khoai, ló (lúa) để sống.
3/ Năm 1956 – 1957, trong nhà có nuôi một con chó lông hung (màu tro - đen) pha mấy đốm vàng ở mặt nên gọi là chó “bốn mắt”. Con chó ni rất khun (khôn), đặt tên là “Siêng”. Mự và các chị thường nói “hắn khun hơn thằng Vinh”. Vào một ngày phiên chợ Đồn, con Siêng theo đò dọc rồi bơi qua ngã ba Cửa Hác (ngã ba sông Gianh, mạn gần thị trấn Ba Đồn – nay là thị xã Ba Đồn) cùng Mự đi chợ Đồn; đến giữa trưa nó lạc mất tại chợ.
4/ Khoảng cuối năm 1954 – đầu 1955, gia đình tôi bị CCRĐ quy “địa chủ”. Gia sản cùng nhà nậy (nhà lớn) bị tịch thu. Nhưng trong nhà vẫn còn có con mèo cụ lông đen tuyền rất to, nuôi đã được 9 - 10 năm từ thời Cụ (cha) tôi vẫn còn sống, nên nó phải hơn tôi và ba tuổi. Tình thế lúc này đang trong cơn đói khủng khiếp – đói đến vàng cả mắt; lại sắp bị Đội CCRĐ đuổi ra khỏi nhà, bốn mẹ con líu ríu chưa biết phải đi ở nơi mô nên sợ không có ai nuôi con mèo nữa. Mự tôi đành phải lừa con mèo vào trong ống quần nhận nước giết ăn. Thương con mèo chết oan uổng, lòng tôi đau đớn đến nhiều năm sau…
5/ Tôi mới hơn 1 tuổi (18 tháng) thì Cụ thân sinh mất; Mẹ góa chồng vào năm 42 tuổi (11/1948).
               Cảm ơn Thi sĩ Ngô Minh đã luôn yêu thương, chia sẻ tình cảm cùng người bạn, người anh em đã sống, làm việc với nhau ở cơ quan Báo Thương mại suốt mấy chục năm…
              Chúc gia đình Ngô Minh thật khỏe, hạnh phúc!
                    Lê Quang Vinh

Sunday, November 1, 2015


TUYẾT PHONG * CHUYỆN VIỆT KIỀU

Chuyện Việt Kiều - Tuyết Phong



Máy bay đang trên không phận Sài Gòn. Tôi hồi hộp nhìn xuống, thấy nôn nao một tâm trạng khó tả. Nó giống như đứa con xa nhà mong gặp lại người mẹ hiền sau bao năm xa cách. Sau hơn mười lăm năm xa cách, tất cả qúa khứ lại hiện về. Từng ngôi nhà, con đường, với biết bao kỷ niệm của quê hương mà tôi luôn ấp ủ. Máy bay đáp xuống đường băng. Nước mắt tự nhiên dâng trào khiến tôi phải cúi xuống, sợ người chung quanh thấy.

Đã tới! Xong thủ tục tại cửa khẩu, tôi chất đầy hành lý lên chiếc xe, đẩy ra cửa. Một cơn nóng ùa vào người. Đó, cái nắng nóng của mùa hè vùng nhiệt đới. Đang muốn nhớ tuổi ấu thơ tung tăng trên sân trường, đá banh với đám bạn cùng lứa thì chợt nghe tiếng gọi: Cấn ơi! Cấn ơi! Tôi đẩy xe bước tới… Rồi nhận ra những khuôn mặt quen thuộc ngày nào. Anh, em, cháu, bạn, họ hàng. Họ vây quanh chúc mừng… Mọi người ai cũng nói, trông tôi trẻ hơn là họ tưởng. Anh Đạo, bạn tôi, còn đùa: “Mày phong độ thế này về đây coi chừng gái nó làm thịt mất!” Và mọi người cười rộ.

Lên xe, tiếng cười nói vui vẻ của mọi người nói về tôi vẫn không ngớt. Xe chạy. Những con đường quen cũ nay trở thành xa lạ! Tôi phải cố moi trong trí những hình ảnh ngày xưa để so sánh sự thay đổi. Chiếc xe cứ đi san sát với những chiếc xe hai bánh khiến tôi có cảm giác như sắp sửa đụng nhau, phải gồng cứng cả người như sẵn sàng chờ đợi.


Xe tới khu Hàng Xanh cũ. Đang cảnh kẹt xe. Con đường mới khác xưa nhiều qúa. Tôi vừa nhìn vừa nhớ cảnh mười bẩy năm trước. A, ven đường này là quán cơm gà, sườn nướng ngày nào. Trên đường về từ Sài Gòn tới Biên Hòa. Mùi thịt nướng thơm ngào ngạt bay ra từ một quán ăn, nó như mời gọi tôi dừng lại mà thưởng thức.

Bụng đói chẳng nghĩ ngợi, tôi lái chiếc xe Dream ghé vào một quán cơm đang nướng thịt thơm phức. Tôi gọi cho mình một đĩa cơm gà nướng đặc biệt... Lấy khăn lau mặt, nhấp ly nước trà đá cho đỡ khát, Đĩa cơm được bưng lên! Ái chà chà! Ôi sao mà hấp dẫn thế này! Gà nướng vàng ươm, cháy dòn xém cạnh, được đặt nằm trên một đĩa cơm tấm có điểm mỡ hành với vài miếng tóp mỡ, bên cạnh vài cọng rau sà lách, với một ít đồ chua, chén nước mắm chấm đã được pha chế, ớt nổi đỏ trên mặt, nhìn hấp dẫn qúa chừng chừng!


Dao nĩa sẵn sàng, tôi đang định cắt miếng thịt thưởng thức trước, nhưng chợt khựng lại! Móc bóp, rồi vội sờ vào các túi quần. Tôi vừa nhớ ra là túi mình không chắc còn đủ để trả cho đĩa cơm gà nướng! Đúng vậy. Chỉ còn đúng năm trăm đồng! Mà đĩa cơm gà, liếc coi gía biểu đã là hai ngàn rưởi (tiền Việt thời đó). Vậy là đành đau đớn mà nhìn cái đùi gà, còn tay thì gỉa vờ ôm miệng, cứ xít xoa… Cuối cùng bà chủ đến bên tôi hỏi. Sao cậu không ăn? - Tôi nhức răng qúa! Nhìn miếng đùi gà ngon mà ăn không được! Thật là tiếc! Bà có thể cảm phiền cho gửi lại miếng gà, tôi chỉ ăn cơm! Có được không thưa bà?


Bà chủ như hiểu ý! Vui vẻ nhận lời. Tôi mừng qúa hỏi luôn, thế cơm không bao nhiêu tiền thưa bà? Tính cậu năm trăm, tôi gật đầu móc túi lấy năm trăm đưa ngay cho bà ta, sợ tí nữa bà lại đổi ý thì to chuyện.

Đang nhớ đĩa cơm tấm ngày xưa, chợt có tiếng ông tài xế quát lớn, “Tiên sư bố mày! Muốn chết hả?”
Tôi giựt mình hỏi chuyện gì thế. Mấy thằng lái xe hai bánh chạy ẩu! Tiếng ông tài xế trả lời.


Xe về tới gần nhà, đoạn đường hơn hai kilômet! Tất cả đã thay đổi, từ con đường, hàng quán, nhà cửa, con người, cho đến phương tiện đi lại, xe hai bánh đâu mà nhiều thế này? Các bảng hiệu mọc lên như nấm tất cả làm tôi phải chú ý! Hình ảnh cũ mới chen lấn nhau. Cái này mất! Cái kia còn! Tôi cứ bồi hồi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác!


Nhà cũ của mẹ tôi đây rồi! Ôi sao mà bé nhỏ thế! Nhà vẫn hai gian ba lầu đúc mà mẹ tôi vất vả để xây dựng nó. Biết bao kỷ niệm lại hiện về… Ngôi nhà cũng đã đựơc sửa sang nhưng vẫn còn nét cũ. Một thời nó là niềm tự hào của anh em chúng tôi. Không hiểu sao lúc đó nhìn nó đồ sộ thế! Bây gìờ sau hơn mười lăm năm trở về, trông nó lại bé nhỏ cả bên trong lẫn bên ngoài…


Hôm sau, tiệc mừng Việt kiều về nước đã sẵn sàng. Trước khi tiệc “khai mạc”, ông trưởng họ gặp riêng tôi phỏng vấn sơ qua về nghề nghiệp chức danh ở bên Mỹ. Tôi thật thà nói mình sửa chữa nhà cửa, và làm thợ mộc. Ông vội hỏi tôi, thế ông có cái thẻ ghi tên nghề nghiệp không.?


Ồ business card! Tôi móc ra tấm thẻ đưa cho ông ta. Ông nhìn rồi nói, “con sì trúc ti on” là con gì thế?
Construction, tức là sửa chữa nhà cửa đấy!


Ông trưởng họ vẻ mặt nghiêm trang nói, vậy phải gọi là kiến trúc sư! Tôi bảo ông, chỉ sửa nhà dạo thôi! Kiến trúc sư cái quái gì.
Không! Phải nói vậy, để mọi người biết ông có “đẳng cấp!”
Thôi! Thôi Tôi không cần! Tôi nói nhưng ông không để tâm.


Tôi được mọi người đón tiếp long trọng tại một hội trường của nhà thờ họ. tiếng vỗ tay cứ liên tục, làm tôi bỗng chốc trở thành một nhân vật quan trọng. Mọi lời nói của tôi được mọi người chú ý và nể phục. Hết người này đến người khác đặt câu hỏi về giáo dục, đời sống, sức khoẻ Tôi cứ thao thao bất tuyệt… Hết đề tài này đến đề tài khác, bao nhiêu kiến thức nhờ nghe được từ đài phát thanh tiếng Việt hay đọc báo ở bên Mỹ mà biết, lần lượt tuôn ra. Rồi cứ như múa kiếm vào chỗ không người, tôi càng nói càng hăng… Mọi người trầm trồ kiến thức uyên bác của tôi. Hết người này đến người khác nâng ly chúc mừng. Đang trong hơi men ngà ngà… Ông trưởng nhà thờ họ đứng lên xin phép có đôi lời với tôi.

Kính thưa ông Cấn, nhà kiến trúc sư ở Mỹ,
Hôm nay tôi xin thay mặt bà con trong họ có vài lời khẩn cầu đến ông. Nhà thờ họ đang trong qúa trình tu sửa còn thiếu… Được biết ở bên Mỹ ông là một Viêt Kiều thành đạt… có tấm lòng quảng đại với quê hương…
Tôi nghe điệp khúc này hơi quen quen! Đang chú ý nhớ coi nó ở cái đoạn nào trong mục vòi tiền mà tôi đã đọc được ở đâu! Nhưng tôi không còn đủ tỉnh trí để xua đi những lời tâng bốc, kính thưa!


Việt Kiều thành đạt! Lúc tỉnh táo thì nghe nó sáo ngữ thật, nhưng hôm nay sừng sừng nghe nó hay hay thêm một chút hãnh diện với bà con lối xóm. Nó khiến tôi tê liệt sự phản kháng, và như chích thêm một luồng xung điện, làm tôi hăng máu hứa luôn, tôi sẽ ủng hộ mười ngàn đô la! Tiếng vỗ tay reo hò hoan hô rồi chúc xôm tụ!


Có tiếng người nói. Đúng là ông Cấn! Phải như thế! Ông ấy giàu qúa mà!
Tôi như chợt nhớ ra con số mười nó có thêm chữ ngàn dollars… Nhưng “đã lỡ phóng lao thì phải theo lao…” Tiếng cụng ly, lời tán dương, tôi cứ như đi trên mây nhưng con số mười ngàn dollars cứ kéo ghì tôi xuống, nó khiến tôi muốn hụt hơi khi nghĩ đến ngày trở lại Mỹ phải cầy trợn mắt, điều quan trọng là không biết bà vợ nhà tôi phản ứng thế nào khi tôi vung tiền mà chẳng cần suy nghĩ. Bên Mỹ con tôi đang cần mua một chiếc xe đi học, đòi mấy tháng nay mà hai vợ chồng cứ khất lần…

Đang lo âu như sự hớ miệng của mình! Một người ra vỗ vai tôi.
- Anh Cấn Xề!
Ai mà biết tên cúng cơm của mình? Tôi nghe giọng nói quen quen quay lại… Chào bà!
- Bà nào? Em đây! Thảo đây! Thảo hồi bé anh cứ đòi cưới em!
Tôi ngớ người, nhưng khi nhắc đến chuyện đòi cưới tôi như sực nhớ ra! Á Thảo Hồng. Cứ tưởng bà cụ nào?


- Cha qủy lão Cấn Xề!
Nhận ra người yêu cũ, tôi thấy hỡi ôi. Con người ta sao mà thời gian làm phai bạc đi nhanh thế này! Trông người yêu đã thành một bà già, tôi cảm thấy xót xa khi nhớ lại hồi còn bé mười hai mười ba tuổi, hai đứa ở sát nhà nhau nên rất thân, nàng cứ hồn nhiên chơi giỡn với tôi. Tôi thì lợi dụng. Cứ gỉa vờ bắt nạt mấy đứa em của cô hàng xóm. Nàng nổi máu chị hùng bênh em, đi qua đòi đánh nhau tay đôi. Tôi cứ gỉa vờ thua nằm dưới để được nàng đè xuống, tát cho mấy cái… Mà nàng vô tư chẳng hề hay biết sự ma mãnh của tôi! Chơi kéo co tôi làm như bị thua ngã nhào vào người cô nàng… Nàng cứ ơ, ơ… thằng qủy, thằng qủy!


Hôm nay chúng tôi nhắc lại biết bao kỷ niệm xưa, nhưng bây gìờ nàng đã thành bà ngoại của mấy đứa cháu… Cố nhân ơi! Nét mỹ miều xưa, nay đâu rồi!
Rồi tiệc mừng việt kiều cũng tàn. Đêm hôm ấy, đang khó ngủ vì giờ giấc thay đổi, chợt điện thoại di động của tôi reng!

Tôi bắt nhìn số hiện lên trong phone biết là vợ gọi. Chưa kịp nói lời chào tốt đẹp đến nàng thì đã nghe tiếng bà như thét vào mang tai, nghe chát chúa…
- Ai cho ông tiền mà ông vung lên thế! Bên này tiền nhà còn thiếu…. Insurance mấy xe chưa trả! Hàng hóa thì đứng… Tiền công thợ còn chưa thanh toán… Ông về bên đó mà nổ!


Cứ vậy, bà vợ tôi trách mắng đủ điều, làm tôi như người từ trên cao rớt bịch xuống đất. Cầm phone mà không biết bye bye từ lúc nào. Tôi thẫn thờ như người bị mất của, rồi thầm nghĩ nguồn tiếp tế chắc chắn sẽ bị cắt, như vậy còn vui thú gì ở đây nữa?

Dù sao, “còn nước còn tát” tới đâu thì tới. Sáng hôm sau vừa thức dậy, ông anh tôi đã thông báo có khách đang đợi ở dưới nhà. Vừa bước xuống đã thấy có đến hơn hai chục người đang đợi đứng chật cả một nhà. Chưa kịp định thần! Tiếng chào ông Cấn đã vang dội. Không đủ chỗ ngồi lên mọi người đều đứng. Một người trong số họ tự giới thiệu. Chủ tịch ban bác ái xã hôi, giới phụ lão, ban y tế phường, ban phụng vụ các bệnh nhân, hội người nghèo…. Tôi nghe mà chóng cả mặt..


Tôi vội ngắt lời. Thế qúy vị muốn gì ở tôi? Chẳng khách sáo, họ nói chúng tôi đã được nghe tấm lòng quảng đại hào hiệp của ông kiến trúc sư nên đến đây mong ông rộng lòng giúp đỡ. Vì...
Người nào cũng chìa ra một danh sách cần giúp đỡ! Thấy tình thế không thoát thân nổi, tôi phải “xuống nước”, xin biếu mỗi hội năm chục dollars, rồi thú thực là tôi cũng không có nhiều tiền mong qúy vị thông cảm!


Tưởng số đông này chắc chỉ chừng vài hội đoàn, nào ngờ khi phát tiền từng hội cũng hết cả ngàn bạc…
Tôi vội hỏi ông anh. Sao họ đánh hơi nhanh thế? Cứ cái kiểu này, thành Việt kiều tả tơi mà về Mỹ sớm. Ông anh còn nói thêm là chưa xong đâu, chú còn phải chuẩn bị tinh thần. Nay mai họ hàng sẽ còn đến thăm chú. Tôi vội hỏi ngay, thế cũng phải phát tiền cho họ à? Ông anh tỉnh bơ nói, thì nhà thờ họ chú còn rộng tay ban phát tới mười ngàn, anh em mà chú lại tính lờ sao được.


Mấy thằng bạn thân nghe tin tôi về, đã lấy xe hơi đời mới xuống thăm và chở tôi đi du ngoạn. Họ đãi đủ các món ăn chơi. Tôi cứ tranh trả tiền nhưng mấy thằng bạn dứt khoát không chịu. Thực sự thì chúng nó qúa hiểu tôi, thuộc loại việt kiều “chân nấm tay bùn”, vất vả quanh năm, không bằng mấy thằng bạn, một cú trúng đất sang tay kiếm vài chục ngàn dollars như chơi!
Đang ăn uống rượu đã ngà ngà say, một thằng bạn cao hứng. Hôm nay phải đưa thằng Cấn xề đi rửa mắt, cho nó biết thế nào “quê hương là chùm khế ngọt”…

Trước tiên, chúng dẫn tôi đi tắm hơi massage ở một khách sạn. Vào phòng tắm hơi, cởi hết quần áo để vào một cái tủ, mỗi người cuốn một cái khăn trắng chung quanh bụng, tên nào đã từng trải thì không mặc gì bên trong để dễ bề hành động! Còn tôi, tôi chọn cách mặc quần lót, chắc ăn dấu tiền dollars vào phía trong, vì là lần đầu tiên đi tắm hơi!


Vào trong một phòng kín, hơi nước nóng bốc lên, nhìn lờ mờ… Tôi đi cứ sợ ngã. Người bắt đầu thấm nước ấm và nhiệt độ trong cơ thể cứ tăng dần lên! Ai cũng nhễ nhãi mồ hôi ướt đẫm, ai nấy tỉnh táo và sảng khoái… Khoảng mười lăm đến hai mươi phút. Chúng tôi được hướng dẫn ra một phòng sáng lau người cho khô, hoặc tắm lại tùy ý.



Bốn thằng chúng tôi được hướng dẫn ra mỗi phòng, có các cô đã trực sẵn. Thằng bạn tôi nói nhỏ với một cô tiếp viên trẻ đẹp, “Thằng bạn anh Việt kiều mời về, ráng chăm sóc nó một chút nghe em…”


Tôi nghe, thấy bất an, đang tính nói vậy là đủ rồi, tao ra ngoài, thì đã bị một cô to con trông cứ như lực sĩ sumo đô vật của Nhật Bản, mặt tròn mắt híp chắc cũng nặng đến cả tạ, hất tôi vào phòng đóng cửa lại!
Tôi đang ngơ ngác sao cô gái trẻ đẹp hồi nãy đâu không thấy? Thì cô nàng phục vụ đã cởi chiếc áo khoác mỏng dài, chỉ còn lại skirt và áo thung ba lỗ trên người. Cô kéo chiếc khăn tắm tôi cuốn ngang bụng ra, nhìn thấy chiếc quần lót tôi đang mặc, nhô ra một cục gì đó dấu phía trong bẹn, cô nhoẻn miệng cười ruồi!

Rất nhanh, tôi thấy mình bị cô đẩy nằm xấp lên giường!
Tôi nhìn cô mà hình dung các võ sĩ sumo Nhật chuẩn bị vật nhau, sợ phát khiếp! Tôi đánh bài năm nỉ, cháu không cần phải làm gì, cứ để chú nằm đây ngủ nửa tiếng là được… Tự nhiên cô ta nhìn tôi rồi cười hì hì, vẻ mặt tỉnh bơ bảo em đã được gửi gấm là phải làm cho anh sung sướng. Thấy tôi muốn vùng ra thoát thân, cô nàng bảo tôi bằng giọng ngọt như mìa lùi, nằm yên, cưng. Cưng mà không yên là em la lên anh đòi hiếp em à nghen! Cô ta vừa dỗ dành, vừa cho tay vờn khắp người tôi như mèo vờn chuột.


Bất chấp lời tôi năm nỉ xin tha, cô ta nhanh nhẹn lấy thế đứng lên dùng đôi chân voi dẫm lên người tôi… Hình như cô cố tình đạp lên đôi mông nơi có xấp đô la dấu trong quần lót, làm tôi kêu oai oái, nhưng cô nàng cứ tỉnh bơ bám trên xà ngang, vừa tiếp tục màn dẫm đạp vừa bật lên tiếng cười ròn rã.
Tiếng cười của nàng vang vọng sang các phòng bên mau chóng được hưởng ứng khiến có nhiều tiếng ồn vọng ngược lại.


Thình lình, có tiếng hỏi vang lên phía ngoài, “Phòng anh Việt kiều đâu?” Cánh cửa phòng bật mở, ba bốn cô gái trẻ măng ùa vào, dạn dĩ, đứa xoa tay, đứa bóp chân, anh em ngọt xớt… Tôi chưa kịp phản ứng thì có tiếng hét lớn: “Công an! Công an kiểm tra!”


Các cô gái bỏ chạy toán loạn. Tôi đang hoang mang không biết phải làm gì thì thấy mấy thằng bạn tới kéo tay tôi chạy vội lại phía phòng thay đồ…
Khoác được áo quần lên người, tôi tỉnh hồn, vội sờ lại xấp tiền dấu trong quần lót thì than ôi, nó đã biến mất, chẳng biết từ lúc nào! Mọi tìm kiếm càm ràm đều vô ích. Có tên bạn còn mắng: Tại mày ngớ ngẩn mà sinh chuyện. Ai lại nhét cọc tiền trong háng khiến mấy con ranh sinh lòng tham! Bày trò hù công an để cả bọn lãnh đủ. Một tên bạn khác an ủi kiểu xỏ lá “Thôi thì cứ coi như cứu đói thêm ba chục hội đoàn hở mông, thiếu vải, giúp các chị em ta “cải thiện...”

Tuy có mắng mỏ nhưng đám bạn tốt cũng áy náy. Sau đó vài ngày, để “bù lỗ” cho tôi, họ dẫn tôi đi thưởng thức món đặc sản quê hương: cháo rắn. Đủ các món thịt rắn mà cả đời tôi nghe nhưng chưa bao giờ được nếm qua. Chủ quán còn mang ra một bình rượu to khoảng hai chục lít ngâm đủ các loại rắn chúa, phơi bụng hanh vàng nằm quấn lấy nhau ở trong hũ thủy tinh lớn màu nâu đậm, nằm lẫn với những rễ cây, củ sâm như hình người, lá thuốc bắc, lẫn lộn ở trong đó. Được chủ quán giới thiệu là Xà tửu chúa! Cường dương bổ tráng. “Ông uống bà khen!”

Được bọn bạn thân thay nhau mời nâng ly, tôi như người phải mùi quyến rũ của hai nàng Thanh xà, Bạch xà trong truyện cổ tích, cứ uống lấy uống để. Rượu thấm say! Nhìn bình rượu thuốc, tôi hình dung mấy nàng độc xà hóa thành những giai nhân uốn eó trong đêm, bên ánh lửa bập bùng… Các giai nhân thay nhau đến bên tôi mời chào, kéo tôi vào một thế giới thần tiên tuyệt diệu.

Cứ như vãy, tôi đã bay lên tới chín tầng mây chẳng còn biết gì... Để rồi khi tỉnh dậy thấy mình nằm trong bệnh viện Chợ Rẫy! Chung quanh tôi là các máy móc thiết bị đo nhịp tim, dây truyền dịch được băng ở trên tay. Có tiếng người nói chú ấy tỉnh rồi! Chưa kịp định thần, tôi chợt thấy đau trong bụng khiến tôi phải nhăn mặt. Anh tôi đến bên nói. Chú tỉnh rồi! May qúa! Chúng tôi đang lo lắng… Hôm qua chú uống say, quậy, cứ đòi hỏi tội Ngọc Hoàng thượng đế! Đòi bãi chức, cho ông ấy về vườn! Chú cứ bắt tội Ngọc Hoàng! Đã dấu hai nàng tiên của chú.

Chú uống nhiều quá bị ngộ độc! May mắn là cấp cứu kịp thời. Các bác sĩ đang cần biết tình hình sức khoẻ của chú ở bên Mỹ…
Tôi nghe mà thấy xấu hổ qúa! Vung tiền ở nhà thờ họ, thì bị vợ mắng xối xả. Đi massage thì bị gái lừa cho trắng váy! Nếm mùi đặc sản quê hương thì ngộ độc tí toi mạng! Ôi, quê hương yêu dấu!

Chợt một bác sĩ trực tiến đến hỏi thăm về sức khoẻ của tôi. Ông hỏi ngay, Anh có phản ứng với các loại thuốc gì không? Có bao giờ phải nhập viện chưa? Tôi trả lời. Không. Rồi ông nói, qua chụp X quang chúng tôi không phát hiện bị tổn thương gì! Ông chỉ bị ngộ độc rượu nặng, chúng tôi đã xúc ruột cứu chữa ông kịp thời, nằm một vài ngày là ông có thể về nhà. Nhưng lần sau khi ăn uống phải cẩn thận…
Trong khi nằm chờ xuất viện, có nhiều bà con đến thăm tôi. Có cả những người tôi đã gặp mới mấy ngày hôm trước đây, trong bữa tiệc đón tiếp tôi, họ hoan hô, bây giờ họ đang xót xa, nhìn tôi với một vẻ mặt thương hại…

Tự nhiên tôi cảm thấy được sự ấm cúng về tình cảm mà họ dành cho mình. Âu đó cũng là một an ủi lớn lao cho đứa con người trong giai đoạn thập tử nhất sinh…

Tuyết Phong

Saturday, October 31, 2015


TÙY NGHI TIẾN * NUÔI CỘNG SẢN

Tại sao chúng ta phải nuôi báo cô bè lũ cs?

Tùy Nghi Tiến (Danlambao) - Mở đầu bài viết này tôi xin được chửi nhà cầm quyền cs VN một phát cho hả cơn “bức xúc”. Đúng là một lũ “làm như con..., mà gặp mặt thì đòi tiền”! 
Như quý vị cũng biết đó, mỗi năm cứ độ thu về, khi Quốc hội cs VN họp, thảo luận tổng kết ngân sách năm nay và làm dự toán cho ngân sách năm sau, thì những ai quan tâm tới tình hình kinh tế Việt Nam đều phải hoa cả mắt, chóng cả đầu với những số liệu bất bình thường mà chúng phổ biến. Chúng ta có thể bị các triệu chứng lâm sàng này không phải là vì dữ liệu ấy khó hiểu mà chỉ vì chúng cực kỳ phi lý.

Chỉ bị xây xẩm là còn đỡ đấy, chứ tôi nghĩ là những người bị bệnh cao huyết áp thì không nên xem, đọc, nghe những báo cáo kinh tế, tài chánh của nhà nước báo cô này bởi vì chúng ta có thể bị lên tăng xông hoặc bị tai biến mạch máu mà chớ. 
Mấy hôm nay có lẽ chúng ta ít nhiều đều có nghe tới vụ thâm thủng ngân sách của nhà nước cs VN. Theo thông tin, Việt Nam có thể lâm vào một cuộc khủng hoảng ngân sách vì tình trạng bội chi triền miên. Chính quyền Hà Nội hiện không có đủ tiền chi tiêu chớ chưa nói tới trả nợ nước ngoài và đầu tư vào phương tiện cơ sở hạ tầng. Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chánh do bọn đại biểu Quốc hội cs VN trích dẫn, thì trong năm 2015 nhà cầm quyền đã trả nợ được 155 ngàn tỷ đồng nhưng lại vay để giải quyết bội chi ngân sách tới 226 ngàn tỷ đồng và vay trái phiếu chính phủ 85 ngàn tỷ đồng. 
Ngoài ra, trong thời gian gần đây chúng còn vay cái gọi là Ngân hàng Nhà nước 30 ngàn tỷ đồng và 1 tỷ Mỹ kim từ ngân hàng Vietcombank để chi tiêu. Các số liệu này cho thấy tổng các khoản vay lớn hơn gấp đôi tổng các khoản nợ trả, hoặc nói cách khác là trong năm 2015 nhà cầm quyền cs đã vay rất nhiều để chỉ trả một phần rất nhỏ nợ và phần lớn là để chi tiêu.
Trước sự sa lầy thâm thủng ngân sách này, Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ Thống kê Liên Hiệp Quốc nhận định: “Tôi có cảm tưởng chính phủ (VN) càng ngày càng mất khả năng kiểm soát chi tiêu của mình, hoặc nói ngược là chính phủ rất muốn chi tiêu. Chính phủ Trung ương đồng ý với các địa phương, xây nhà, xây đường xá, ông nào cũng đòi xây cái này cái kia. Và nhiều khi họ chưa có ngân sách mà đã bắt đầu xây rồi. Do làm việc thiếu hiệu quả nên hầu như công trình nào chi phí cũng vượt dự toán ban đầu, Công trình nào cũng vậy cả. Thành ra, với tình trạng này tôi thấy rất là khó, khả năng nợ càng ngày càng nhanh và hiệu quả thì thấp. Khả năng trả nợ chắc chắn là sẽ khó khăn”. (1)
Còn chuyên gia tài chánh Bùi Kiến Thành, trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ đài BBC, nhận xét: “Tình hình tài chánh của VN đang rất khẩn trương với đầy những vấn đề không được giải quyết: ngân sách cạn kiệt, chi tiêu không được quản lý chặt chẽ, lãng phí đầu tư công và rút ruột công trình; và nợ công không được xử lý ổn thỏa”. (2)
Tại kỳ họp cuối cùng Quốc hội cs VN Khóa XIII mới vừa qua, nhiều số liệu về những thành quả kinh tế trong năm 2015 đã được công bố và khiến không ít người sững sờ. Theo nhà cầm quyền cs, sở dĩ tình hình ngân sách năm 2015, cụ thể là tổng thu nhập, u ám như thế là vì hai nguyên nhân chủ yếu. Một là giá dầu thô trên thế giới giảm mạnh và ảnh hưởng lên giá dầu thô xuất khẩu của Việt Nam. Thu nhập từ xuất khẩu dầu thô đã bị giảm mất một nửa, tương đương khoảng 63 ngàn tỷ đồng. Lý do thứ hai là việc cắt giảm thuế quan với hàng hóa từ các quốc gia ASEAN và một số quốc gia khác trong các hiệp định kinh tế-mậu dịch mà Việt Nam gia nhập. 
Tên Phó Thủ tướng Vũ văn Ninh được đài BBC trích dẫn cho biết rằng: “Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2015-2020 thuế suất giảm từ 25% xuống 20%, nhưng vì khó khăn nên phải hạ nhanh hơn”.
Đối với ngân sách 2016, các báo cáo tại Quốc hội cs VN cho thấy còn nguy cấp hơn nữa. Theo đó trả nợ theo kế hoạch năm 2016 là 155 ngàn tỷ đồng, nhưng trong đó đáo nợ hay vay nợ mới để trả nợ cũ lên tới 95 ngàn tỷ đồng và bội chi ngân sách tới 254 ngàn tỷ đồng. Theo dự toán của nhà cầm quyền cs, chi đầu tư phát triển trong năm 2016 sẽ tăng cao hơn dự toán năm 2015 gần 61 ngàn tỷ đồng, nhưng con số mà chúng có thể phân bố trong điều kiện eo hẹp hiện nay chỉ là 45 ngàn tỷ đồng. Nếu số tiền phân bố này được dùng để trả nợ thì sẽ không còn tiền để đầu tư.
Giải thích về ngân sách năm 2016, tên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ, Nguyễn văn Nên cho biết: “Về thu Ngân sách Nhà nước (NSNN), chính phủ đã báo cáo Quốc hội dự kiến tổng thu năm 2016 là 1.014 ngàn tỷ đồng, tăng 103 ngàn tỷ đồng so với dự toán năm 2015”. (3).

“Về dự toán chi đầu tư phát triển nguồn NSNN năm 2016 là 255,75 ngàn tỷ đồng, cao hơn mức bội chi NSNN (254 ngàn tỷ đồng). Tính cả chi đầu tư từ nguồn trái phiếu chính phủ 60 ngàn tỷ đồng, từ nguồn thu xổ số kiến thiết 26 ngàn tỷ đồng thì tổng chi đầu tư phát triển năm 2016 là 341,75 ngàn tỷ đồng, chiếm 25.1 phần trăm tổng chi của NSNN”.

“Con số mà Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (BKH-ĐT) đề cập (45 ngàn tỷ đồng) là vốn ngân sách trung ương trong nước và chỉ là một phần trong tổng chi đầu tư phát triển nêu trên”.
Với tình trạng bội chi như vậy mà nhà cầm quyền cs lại tính làm một chuyện hết sức tào lao và phí phạm. Dĩ nhiên, là tào lao và phí phạm trong mắt của người dân chớ đối với chúng thì là cơ hội. Đó là chúng đề nghị Quốc hội của chúng cho phép xóa nợ các công ty quốc doanh làm ăn thua lỗ. 
Thật vậy, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII như đã nêu ở trên về các vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế, tên Bộ trưởng Tài chánh Đinh Tiến Dũng đã đại diện tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới tham dự và đưa ra đề nghị xóa các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thuộc danh sách cổ phần hóa, giao, bán, sáp nhập và sắp xếp lại.
Thẩm tra đề xuất này, tên Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm cái gọi là Ủy ban Tài chánh Ngân sách Quốc hội cho biết đa số ý kiến trong ủy ban nhất trí với phương án này. Tuy nhiên, theo Hiển, một số ý kiến cho rằng việc quy định như đề nghị sẽ dẫn đến trường hợp các DNNN hiện nay chưa đến thời điểm thực hiện cổ phần hóa, cố tình chây ì, chậm nộp tiền thuế để tăng số nợ thuế lớn hơn số lỗ lũy kế của DN hoặc cố tình không khai số thuế nợ trong giá trị của DN để được hưởng chính sách xóa nợ của Nhà nước cs VN.
Vì vậy, đại diện ủy ban này đề nghị chỉ xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp đối với DNNN trong khoảng thời gian được giới hạn trước 31/12/2015, không nên quy định trong luật thành một chính sách thường xuyên. Theo đó, đây là nội dung mang tính cá biệt, nên đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết về xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp của DNNN và bổ sung vào nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nuớc năm 2016. 
Hiển còn biện hộ rằng: “Luật DN năm 2014 quy định nguyên tắc khi cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu như sau: “Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi”. Vì vậy, quy định về xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt chậm nộp đối với DNNN đã thực hiện cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu và pháp nhân mới không chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ tiền thuế, tiền phạt là không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành”. (4) 
Như vậy, kể ra chính quyền chxhcn VN chơi sang thật! Trong khi ngân sách bị thâm thủng khủng khiếp mà lại hào phóng xóa nợ cho các doanh nghiệp đang thiếu mình và đi mượn nợ người khác để chi tiêu! Làm ăn kiểu này thì chúng ta cũng đủ hiểu tại sao tài nguyên quốc gia ngày càng cạn kiệt và người dân ngày càng nghèo túng, mà các quan chức trong chính quyền csVN hay trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng phát đạt.
Các doanh nghiệp nhà nước cứ làm ăn thua lỗ từ năm này qua năm khác và suốt mấy chục năm nay, vậy mà có người vẫn còn bênh vực chúng.
Thật vậy, theo Trần Vinh Dự, một Tiến sĩ được đào tạo ở Hoa Kỳ nhưng về VN làm việc, thì không nhất thiết hễ là doanh nghiệp nhà nước là làm ăn thua lỗ. Trong một bài viết có nhan đề “Khi doanh nghiệp nhà nước thua lỗ”, anh ta đã lấy một số công ty ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường để dẫn chứng về sự thành công của doanh nghiệp nhà nước, chẳng hạn như hãng hàng không Singapore, công ty Bombay Transport Authority của Ấn Độ, công ty sản xuất máy bay Embraer của Brazil, công ty sản xuất xe ô tô Renault của Pháp, công ty sản xuất thép POSCO của Đại Hàn v.v…
Ngoài lãnh vực hàng không, hắn còn trình bày sự thành công của các doanh nghiệp nhà nước trong các lãnh vực khác ở Singapore, chẳng hạn như: viễn thông (điện và xăng dầu), giao thông (đường sắt, xe buýt), cảng, điện toán, đóng tàu, cơ khi, vận tải biển, ngân hàng…. Theo Trần Vinh Dự, sở dĩ các doanh nghiệp nhà nước cần thiết là vì chúng hội được các yếu tố như: độc quyền tự nhiên, năng lực huy động vốn, ngoại trợ (mà anh ta gọi là ngoại ứng) và phổ cập. (5)
Hắn cũng vạch ra các điểm yếu của các doanh nghiệp nhà nước. Đó là vô trách nhiệm, thiếu động cơ làm việc, thái độ ăn theo, thiếu giám sát, thiếu tinh thần cạnh tranh. Theo anh ta, các yếu tố này thường là nguyên do gây ra sự yếu kém và không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. (6). Tuy nhiên, tôi xin bổ sung thêm một số yếu điểm hiển nhiên khác của các doanh nghiệp nhà nước, đó là thiếu tôn trọng tài năng, lãng phí và bè phái.
Tôi tạm tán thành những lý luận của anh ta về vai trò và ưu khuyết điểm của các doanh nghiệp tư và quốc doanh. Tuy nhiên, tôi không đồng ý với mục đích bênh vực cho các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam của bài viết. Những điển hình thành công mà hắn trưng dẫn chỉ là những hoa thơm, quả ngọt. Nhưng hắn đã cố tình bỏ sót một yếu tố rất quan trọng cho các sự thành công đó, và nó lại nắm giữ một vai trò nền tảng và then chốt. Nếu không có nó, tôi có thể đoan chắc là sẽ không có những hoa thơm, quả ngọt đó. Đó chính là thổ nhưỡng sinh học và phân bón. Việt Nam trong mấy chục năm qua đã khiếm khuyết yếu tố này. Thổ nhưỡng đó chính là thể chế chính trị, và phân bón chính là tính nhân bản, sự khai phóng, khả năng sáng tạo và kỹ năng chấp nhận rủi ro để khởi nghiệp (entrepreneurial skill).
Dự có viện dẫn công ty viễn thông quân đội Viettel và xem đây là một điển hình thành công của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, tôi chỉ xem đây là một hiện tượng khác thường trong cái môi trường hoạt động kinh doanh thiếu khích lệ và thiếu công bằng. Viettel chỉ là một anh mèo mù ăn phải cá rán. 
Theo nhận xét tổng quát của tôi, tình trạng các doanh nghiệp nhà nước hoạt động ỷ lại, không hiệu quả và lãng phí, và lâm vào tình trạng thua lỗ như ngày hôm nay là một hậu quả “tất yếu” từ sự dung túng của nhà cầm quyền. Những yếu điểm của các doanh nghiệp nhà nước cũng chính là những điểm đặc trưng của nhà cầm quyền cs VN và hậu quả làm việc của hai đám thế lực này đã chẳng hề khác nhau. 
Vậy thì tại sao chúng ta cứ phải nuôi báo cô bè lũ cầm quyền bất tài, vô dụng?
31/10/2015
______________________________________
Tham khảo:

LÊ XUÂN NHUẬN * THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỂ NƯỚC NGÀY NÀO ?



THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỂ NƯỚC NGÀY NÀO ?



1/ Đoàn Thêm, “Hai Mươi Năm Qua – Việc từng ngày – 1945-1964”, Xuân Thu, Los Alamitos, CA, USA (không ghi năm xuất bản), trang 148:


25-6-1954.- Thủ Tướng chỉ định Ngô đình Diệm về nước.”



2/ Chính Đạo, “Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập B: 1947-1954)”, Văn Hóa, Houston, TX, USA, 1997, trang 392:

14/6/1954: PARIS: Diệm gặp Đại sứ Mỹ Douglas Dillon, báo tin sắp được làm Thủ Tướng... Diệm muốn Mỹ viện trợ nhiều hơn để bảo vệ châu thổ sông Hồng (FRUS, 1952-1954, XIII:2:1695-6).”

trang 397:

Thứ Sáu, 25/6/1954:
Sài Gòn: Diệm về nước.”


3/ Phạm Văn Lưu, “Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại – Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt-Mỹ 1954-1963”, Centre for Vietnamese Studies, Melbourne, Vic, Australia, 1994, trang 50:

“Sau khi thảo luận với Ông Foster Dulles, để ông ta biết ý định ấy, tôi cho vời Ngô Đình Diệm và bảo ông ta: ... Ông cần phải lãnh đạo Chính Phủ... Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông đáp: Thưa Hoàng Thượng... tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó...” và (sau khi ông Diệm “xin thề”) “Bốn mưoi tám giờ sau (tức 2 ngày sau), Ông Diệm về Sàigòn cùng với Hoàng Thân Bửu Lộc để bàn giao quyền hành.” (trích hồi ký “Con Rồng Việt Nam” của Bảo Đại).


Trang 57:


“Đến ngày 24 và 25 tháng 5 (1954), theo chỉ thị của Hoa Thịnh Đốn, Đại Sứ Mỹ tại Ba Lê là Dillon và một số viên chức khác đã đến gặp Ông Diệm để bàn về việc ông nhận chức vụ Thủ Tướng. Nhưng sự việc đã xảy ra ngoài sự dự đoán của Hoa Thịnh Đốn và các viên chức Mỹ tại Ba Lê: Ngô Đình Diệm đã nhận lời mời của Quốc Trưởng Bảo Đại để làm Thủ Tướng,...”


Trang 59:


Ngày 19.6.1954, ông Diệm chính thức chấp nhận sự ủy nhiệm của Quốc Trưởng Bảo Đại vào chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ về nước thành lập nội các. Trong dịp này, Quốc Trưởng cũng trao cho Ông Diệm một đạo dụ ủy cho toàn quyền...”



Trang 59:


“Ngày 24.6.1954 Thủ Tướng Diệm rời Ba Lê lên đường về Sàigòn.”


4/ Nguyễn Đình Tuyến, "Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975", Đại Học Đông Nam, Houston, TX, USA, 1995, trang 25:



"Ông Ngô Đình Diệm bay về Saigon ngày 26 tháng 6 năm 1954."



5/ Hoàng Ngọc Thành, “Những Ngày Cuối Cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm”, Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, San Jose, CA, USA, 1994, trang 58:


“Thủ tướng Ngô Đình Diệm đáp phi cơ về Sàigòn ngày 21-6-1954,”


Trang 71:


“Ông Ngô Đình Diệm được Bảo Đại mời làm thủ tướng... ngày 16-6-1954. Ba ngày sau (tức ngày 19-6-1954), ông nhận lời. Độ 5 ngày nữa, tức là ngày 24-6-1954, ông đáp phi cơ hãng Air France rời Ba Lê và hai ngày sau đến Sàigòn. Cùng đi với ông, có người em trai là Ngô Đình Luyện, ông Trần Chánh Thành, ông Nguyễn Văn Thoại, một giáo sư đại học tại Pháp, hình như là em chồng bà... em ruột ông Diệm... Ngày 26-6-1954, phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.”



6/ Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam Cận và Hiện Đại, “Việt Nam – Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia – Cộng Sản”. Santa Clara, CA, USA, 2002, trang 485:


Ngày 18.6.1954, Quốc Trưởng Bảo Đại ký một đạo dụ trao cho ông Diệm, nội dung “ủy nhiệm Ngô Đình Diệm lập Chính Phủ với toàn quyền dân sự và quân sự.” (Sắc lệnh số 38 QT).


Nhận Xét: Đã gọi là đạo dụ rồi, sao lại còn có Sắc Lệnh nữa?


Trang 485:


“Ngày 25.6.1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cùng Hoàng thân Bửu Lộc về nước để bàn giao quyền hành và lập chính phủ mới.”



7/ Văn Bia, “Đời Một Phóng Viên và Những Ngày Chung Sống với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm”, Lê Hồng, Methuen, MA, USA, trang 273:

“Lần đầu lưa thưa đi rước hụt đã là một thí nghiệm cho thấy sự hưởng ứng bi đát. Chiếc phi cơ Air France đáp xuống rồi mới được thông báo là không có mặt ông Diệm trên đó... Lần sau hy vọng Ủy Ban Tiếp Đón cố vận động mạnh hơn.”



NHẬN XÉT:


I- Ông Ngô Đình DiỆm nhẬn lỜi (làm ThỦ TưỚng) vào ngày nào ?


a) Ông Chính Đạo (xem Đoạn 2 trên kia), đã viết ở trang 392 là ông Ngô Đình Diệm báo tin cho Đại Sứ Mỹ biết rằng mình “sắp được làm Thủ Tướng” (tức là đã đồng ý với việc đó rồi) từ ngày 14/6/1954.

b) Ông Phạm Văn Lưu (xem Đoạn 3 trên kia) đã viết ở trang 57 là ông Ngô Đình Diệm đã nhận lời làm Thủ Tướng trước (hoặc vào) ngày 24 và 25.5.1954 rồi; tuy nhiên ở trang 59 lại viết là đến ngày 19.6.1954 (hơn 3 tuần sau) ông Diệm mới nhận lời .

c) Ông Hoàng Ngọc Thành (xem Đoạn 5 trên kia) cũng viết là đến ngày 19/6/1954 ông Diệm mới nhận lời.

d) Cựu Hoàng Bảo Đại, trong hồi ký “Con Rồng Việt Nam”, thì xác nhận rằng Quốc Trưởng thuyết phục một hồi là ông Ngô Đình Diệm xin nhận lời mời, ngay trong một buổi (xem Đoạn 3 trên kia, về Phạm Văn Lưu) trong lúc ông Hoàng Ngọc Thành (xem Đoạn 5 trên kia) lại viết là ba ngày sau ông Diệm mới nhận lời .


II- NHỮNG AI CÙNG VỀ CHUNG MỘT CHUYẾN BAY VỚI ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM?


Các ông Phạm Văn Lưu (xem Đoạn 3 trên kia) và Hoàng Ngọc Thành (xem Đoạn 5 trên kia) có kể tên một số nhân vật cùng đi với ông Ngô Đình Diệm trên chuyến bay từ Pháp về nước, nhưng không có tác giả nào đề cập đến Hoàng thân Bửu Lộc, như ông Phạm Văn Lưu (xem Đoạn 3 trên kia) đã trich dẫn lời của Cựu Hoàng Bảo Đại, và như Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử (xem Đoạn 6 trên kia) đã ghi, trong lúc Hoàng Thân Bửu Lộc là một Thủ Tướng đương nhiệm (vì chưa bàn giao), chứ đâu phải chỉ là một hành khách vô danh.



III- ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM THƯC SỰ VỀ NƯỚC VÀO NGÀY NÀO ?


a) Các ông Đoàn Thêm (xem Đoạn 1 trên kia) và Chính Đạo (xem Đoạn 2 trên kia) viết là TT Ngô Đình Diệm về nước ngày 25-6-1954.

b) Ông Phạm Văn Lưu (xem Đoạn 3 trên kia) ghi ngày rời Ba Lê là 24-6-1954 nhưng không ghi ngày về đến sân bay Tân Sơn Nhất.

c) Các ông Nguyễn Đình Tuyến (xem Đoạn 4 trên kia) và Hoàng Ngọc Thành (xem Đoạn 5 trên kia) ghi ngày về nước của Thủ Tướng Diệm là 26-6-1954.


d) Ông Hoàng Ngọc Thành (xem Đoạn 5 trên kia) đã viết ở trang 58 là TT Diệm đáp phi cơ về Sàigòn ngày 21-6, nhưng ở trang 71 lại viết là đáp phi cơ rời Ba Lê ngày 24-6-1954.


e) Nhóm Nghiên Cúu Lịch Sử thì ghi ngày 25-6-1954 nhưng không nói rõ ngày ấy là ngày rời Ba Lê hay ngày đáp xuống Tân Sơn Nhất.


f) Cựu Hoàng Bảo Đại thì viết: (sau khi ông Diệm “xin thề”) “Bốn mươi tám giờ sau (tức 2 ngày sau), Ông Diệm về Sàigòn cùng với Hoàng Thân Bửu Lộc để bàn giao quyền hành.” Nếu, theo các tác giả Phạm Văn Lưu (xem Đoạn 3 trên kia) và Hoàng Ngọc Thành (xem Đoạn 5 trên kia), ông Ngô Đình Diệm đã nhận lời mời vào ngày 19-6-1954, thì ông Diệm phải rời Ba Lê vào ngày 21, nhưng ông Hoàng Ngọc Thành lại viết là rời Ba Lê vào ngày 24-6-1954.


g) Ký giả Văn Bia (xem Đoạn 7 trên kia) có viết là có một lần rước hụt, nghĩa là có 2 chuyến bay đã được loan tin là đưa Thủ Tướng Diệm về nước, chuyến trước không có TT Diệm trên đó, chuyến sau mới có. Như thế, có thể là có vài nhà viết sử đã dựa vào tin loan báo về chuyến bay trước mà chép về ngày về nước của Thủ Tướng Diệm chăng?


Vậy thì Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã thật sự về nước vào ngày nào?


LÊ XUÂN NHUẬN

BÙI TÍN * LỜI TRẦN TÌNH CUỐI

Nhà báo Bùi Tín và những lời trần tình cuối đời


Tôi từng ở trong Đảng CS từ tuổi 20, ở trong Đảng 44 năm, 65 tuổi mới thoát Đảng, trở thành người tự do 25 năm nay. Có người bảo là quá chậm, còn chê vui là “sao mà ngu lâu thế!”, nhưng tôi chỉ mỉm cười, tự nhủ mình ngu lâu thật, nhưng vẫn còn sớm hơn hàng triệu đảng viên hiện còn mang thẻ đảng viên CS cuối mùa. Nghĩ mà tội nghiệp cho các đồng chí cũ của tôi quá, sao lại có thể ngu mê, ngủ mê lâu đến vậy.
<!->

Năm nay tôi tự làm “cuộc kỷ niệm” độc đáo, về thời điểm cuộc đời tôi, đến năm nay 2015, tính ra đã đạt một nửa đời (20 năm đầu đời cộng với 25 năm ở nước ngoài) là 45 năm không có dính dáng gì đến đảng CS. Tôi đã lãng phí gần nửa đời người –
gần 45 năm cho những hoạt động lầm lỡ, sai trái, tệ hại vì hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử, cũng do sự u mê, ngu lâu của bản thân mình.

Nhân kỷ niệm riêng độc đáo này, tôi nghĩ đến vô vàn đồng chí CS cũ của tôi, và viết bài này gửi đến các bạn như một buổi nói chuyện cởi mở, tâm huyết, mong được trao đổi rộng rãi với các bạn cũng như với các bạn trẻ trong Đoàn Thanh niên CS mang tên ông Hồ Chí Minh.

Câu chuyện sẽ xoay quanh hai chữ: Giác ngộ.

Giác ngộ là hai chữ tôi nghe rất nhiều lần khi được tuyên truyền về Đảng CS, về chủ nghĩa CS. Các vị đàn anh giải thích con người tốt phải là con người giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là nhận ra lý tưởng cho cuộc đời minh. Tuổi trẻ cần có lý tưởng, hiểu rõ con đường cần chọn, hiểu rõ tổ chức cần tham gia, không bỏ phí cuộc đời minh. Đó là con đường Cộng Sản, dẫn đến độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân, họ rao giảng triền miên như thế, chúng tôi cũng cả tin là thế thật.

Theo học các chương trinh và lớp học cho đảng viên mới, cho cán bộ sơ cấp, trung cấp, cao cấp của đảng, bao giờ giảng viên cũng nhắc đến hai chữ giác ngộ. Học, học nữa, học mãi để nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ của mỗi người. Đảng viên phải có trình độ giác ngộ cao hơn quần chúng ngoài đảng. Đảng viên mới luôn được học kỹ tấm gương của anh thanh niên Lý Tự Trọng, với nét nổi bật nhất là giác ngộ CS từ tuổi thiếu niên, rồi biết bao tấm gương của những chiến sỹ CS ưu tú, bất khuất trong các nhà tù thực dân ở Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum…giác ngộ cách mang cao, nhà tù, máy chém không nao núng, biến nhà tù thành trường học nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bất khuất, kiên cường.

Trong các bản khai lý lịch cá nhân, mỗi đảng viên thường kể lại bản thân mình được giác ngộ ra sao, được ai giác ngộ, giác ngộ đến mức nào, và luôn kết luận với lời hứa không ngừng học tập, tu luyện, tự phê bình và phê bình để không ngừng nâng cao trinh độ giác ngộ của bản thân.

Tôi kể ra như thế để thấy hai chữ giác ngộ có tác dụng sâu sắc ra sao đối với mỗi đảng viên CS. Hai mươi nhăm năm nay, tôi hồi tưởng lại quãng đời 44 năm là đảng viên CS, theo dõi chặt chẽ thời cuộc hằng ngày trong nước và thế giới, tôi không khỏi cảm thấy chua chát và cay đắng về hai chữ giác ngộ.

Giác ngộ hình như là một chữ Đảng CS mượn của Đạo Phật. “Giác” là nhận thấy, cảm nhận, thấy rõ, “ngộ” là tỉnh ra, nhận ra lẽ phải, chân lý để làm theo.

Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp…, tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.

Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.

Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn nguy hại trong thực tế, cổ xuý đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực, đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington, tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.

Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.

Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ tướng, là uỷ viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: “Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất công! “, vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII rằng “kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi “, một thái độ ngoan cố, cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại của minh.

Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật.
Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.

Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể giết bà Năm – Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là ân nhân của đảng CS, – ông còn văn hoa nói: “Không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa”. Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản Cáo trạng kết án Bà Năm: “Địa chủ ác ghê”, ký tên CB (của Bác- Bác Hồ) trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang, mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm.
Vậy ông Hồ là con người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?

Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăng trối (do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng ông Hồ là “con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực, nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều con, rất phức tạp”, là một “Tào Tháo của muôn đời”.
Ông Trần Đức Thảo cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến cả nước thành Tào Tháo hết cả ư!
Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá ! Ý kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.

Tôi có nhiều lý do để quí trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần, khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản viết, khen đãi bôi: “Chú văn hay chữ tốt nhỉ!” rồi đút vào túi. Hơn nữa, cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự, do quan niệm Nho giáo “Trung thần không theo hai Vua”, nhưng ông Hồ vẫn cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng
Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng, khách quan, chuẩn xác của chính mình.

Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông dựng lên thật ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do
xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền.
Các tổ chức xã hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và Tự Do cho nước Việt Nam ta.

Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xoá bỏ những điều giác ngộ cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.

Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng, đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, “do kẻ xấu và bọn phản động xúi giục”. Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hoá đạo đức. Kiên quyết từ bỏ, gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai
lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến, tiếc thương.

Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến. Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.

Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công dân, mỗi gia đình chung hưởng.

Bùi Tín, VOAs Blog

Tái bútXin đề nghị các mạng blog tự do, lề trái, và bạn đọc có điều kiện nhân bản bài viết này và gửi cho các đảng viên CS quen biết, nhân Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện dự thảo cho Đại Hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII đầu năm 2016. Xin đa tạ. B.T

BÙI TÍN * BAN KI MOON



Ông Ban Ki-moon có gốc gác Việt Nam






http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/10/151029_bankimoon_vietnam_visit










2/- VOA






Nhà báo Bùi Tín và những lời trần tình cuối đời tố đảng CSVN mà ông là cựu đại tá bộ độ “Cụ hồ”(Thay một lời trăng trối gửi các đảng viên CS, các đồng chí cũ)
Tác giả: Bùi Tín

Tôi từng ở trong Đảng CS từ tuổi 20, ở trong Đảng 44 năm, 65 tuổi mới thoát Đảng, trở thành người tự do 25 năm nay. Có người bảo là quá chậm, còn chê vui là “sao mà ngu lâu thế!”, nhưng tôi chỉ mỉm cười, tự nhủ mình ngu lâu thật, nhưng vẫn còn sớm hơn hàng triệu đảng viên hiện còn mang thẻ đảng viên CS cuối mùa. Nghĩ mà tội nghiệp cho các đồng chí cũ của tôi quá, sao lại có thể ngu mê, ngủ mê lâu đến vậy.

Năm nay tôi tự làm “cuộc kỷ niệm” độc đáo, về thời điểm cuộc đời tôi, đến năm nay 2015, tính ra đã đạt một nửa đời (20 năm đầu đời cộng với 25 năm ở nước ngoài) là 45 năm không có dính dáng gì đến đảng CS. Tôi đã lãng phí gần nửa đời người –
gần 45 năm cho những hoạt động lầm lỡ, sai trái, tệ hại vì hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử, cũng do sự u mê, ngu lâu của bản thân mình.

Nhân kỷ niệm riêng độc đáo này, tôi nghĩ đến vô vàn đồng chí CS cũ của tôi, và viết bài này gửi đến các bạn như một buổi nói chuyện cởi mở, tâm huyết, mong được trao đổi rộng rãi với các bạn cũng như với các bạn trẻ trong Đoàn Thanh niên CS mang tên ông Hồ Chí Minh.

Câu chuyện sẽ xoay quanh hai chữ: Giác ngộ.

Giác ngộ là hai chữ tôi nghe rất nhiều lần khi được tuyên truyền về Đảng CS, về chủ nghĩa CS. Các vị đàn anh giải thích con người tốt phải là con người giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là nhận ra lý tưởng cho cuộc đời minh. Tuổi trẻ cần có lý tưởng, hiểu rõ con đường cần chọn, hiểu rõ tổ chức cần tham gia, không bỏ phí cuộc đời minh. Đó là con đường Cộng Sản, dẫn đến độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân, họ rao giảng triền miên như thế, chúng tôi cũng cả tin là thế thật.

Theo học các chương trinh và lớp học cho đảng viên mới, cho cán bộ sơ cấp, trung cấp, cao cấp của đảng, bao giờ giảng viên cũng nhắc đến hai chữ giác ngộ. Học, học nữa, học mãi để nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ của mỗi người. Đảng viên phải có trình độ giác ngộ cao hơn quần chúng ngoài đảng. Đảng viên mới luôn được học kỹ tấm gương của anh thanh niên Lý Tự Trọng, với nét nổi bật nhất là giác ngộ CS từ tuổi thiếu niên, rồi biết bao tấm gương của những chiến sỹ CS ưu tú, bất khuất trong các nhà tù thực dân ở Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum…giác ngộ cách mang cao, nhà tù, máy chém không nao núng, biến nhà tù thành trường học nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bất khuất, kiên cường.

Trong các bản khai lý lịch cá nhân, mỗi đảng viên thường kể lại bản thân mình được giác ngộ ra sao, được ai giác ngộ, giác ngộ đến mức nào, và luôn kết luận với lời hứa không ngừng học tập, tu luyện, tự phê bình và phê bình để không ngừng nâng cao trinh độ giác ngộ của bản thân.

Tôi kể ra như thế để thấy hai chữ giác ngộ có tác dụng sâu sắc ra sao đối với mỗi đảng viên CS. Hai mươi nhăm năm nay, tôi hồi tưởng lại quãng đời 44 năm là đảng viên CS, theo dõi chặt chẽ thời cuộc hằng ngày trong nước và thế giới, tôi không khỏi cảm thấy chua chát và cay đắng về hai chữ giác ngộ.

Giác ngộ hình như là một chữ Đảng CS mượn của Đạo Phật. “Giác” là nhận thấy, cảm nhận, thấy rõ, “ngộ” là tỉnh ra, nhận ra lẽ phải, chân lý để làm theo.

Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp…, tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.

Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.

Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn nguy hại trong thực tế, cổ xuý đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực, đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington, tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.

Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.

Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ tướng, là uỷ viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: “Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất công! “, vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII rằng “kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi “, một thái độ ngoan cố, cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại của minh.

Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật.
Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.

Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể giết bà Năm – Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là ân nhân của đảng CS, – ông còn văn hoa nói: “Không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa”. Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản Cáo trạng kết án Bà Năm: “Địa chủ ác ghê”, ký tên CB (của Bác- Bác Hồ) trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang, mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm.
Vậy ông Hồ là con người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?

Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăng trối (do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng ông Hồ là “con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực, nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều con, rất phức tạp”, là một “Tào Tháo của muôn đời”.
Ông Trần Đức Thảo cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến cả nước thành Tào Tháo hết cả ư!
Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá ! Ý kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.

Tôi có nhiều lý do để quí trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần, khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản viết, khen đãi bôi: “Chú văn hay chữ tốt nhỉ!” rồi đút vào túi. Hơn nữa, cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự, do quan niệm Nho giáo “Trung thần không theo hai Vua”, nhưng ông Hồ vẫn cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng
Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng, khách quan, chuẩn xác của chính mình.

Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông dựng lên thật ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do
xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền.
Các tổ chức xã hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và Tự Do cho nước Việt Nam ta.

Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xoá bỏ những điều giác ngộ cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.

Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng, đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, “do kẻ xấu và bọn phản động xúi giục”. Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hoá đạo đức. Kiên quyết từ bỏ, gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai
lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến, tiếc thương.

Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến. Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.

Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công dân, mỗi gia đình chung hưởng.

Bùi Tín, VOAs Blog

Tái bút: Xin đề nghị các mạng blog tự do, lề trái, và bạn đọc có điều kiện nhân bản bài viết này và gửi cho các đảng viên CS quen biết, nhân Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện dự thảo cho Đại Hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII đầu năm 2016. Xin đa tạ. B.T

(Hết bài của nhà báo Bùi Tín)




BAN KI MOOM

Ông Ban Ki-moon có gốc gác Việt Nam?

  • 30 tháng 10 2015

Image caption Hình ảnh mạng xã hội lan truyền ông Ban Ki-moon thăm nhà thờ họ Phan Huy ở Việt Nam - Ảnh: Facebook Nguyễn Xuân Diện

Sáng ngày 30/10, mạng xã hội tại Việt Nam lan truyền thông tin và bút tích được cho là của ông Ban Ki-moon, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) trong một chuyến ông đến Sài Sơn, xứ Đoài (huyện Quốc Oai, Hà Nội) để thăm nhà thờ họ Phan Huy.

Ngày ông Ban đến đây được cho là 23/5/2015.
Tiến sỹ Diện nói ông được người quen làm quan chức địa phương cho hay ông Ban đã tới "chiêm bái, dâng hương tại nhà thờ dòng họ Phan Huy và nhận mình là hậu duệ của dòng họ".
Ông cũng nói thêm tên Ban Ki-moon theo Hán tự là Phan Cơ Văn.
Trả lời phỏng vấn của BBC từ Hà Nội, tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện – công tác tại viện nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết: “Vào lúc sáng sớm hôm nay, một Facebooker ở Mỹ có đưa một thông tin là ngài Ban Ki-moon đã về Việt Nam trong một chuyến đi âm thầm, và ngài có đến nhà thờ của dòng họ Phan Huy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Ngài đến thăm, dâng hương và có để lại lưu bút.”
Ông Nguyễn Xuân Diện cũng cho biết thêm, người chụp bức ảnh có trang lưu bút của ông Ban Ki-moon là học giả Lê Vĩnh Trương. Đồng thời ông nói: “Chúng tôi đã so sánh nét chữ của ngài cùng với chữ ký thì đúng là thủ bút của ngài Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon.”

Quan hệ dòng họ

Ông Diện bình luận chuyến thăm “riêng tư” của tổng thư ký LHQ cho thấy có thể có "gốc tích và mối quan hệ của dòng họ Phan của ngài với dòng họ Phan Huy ở Quốc Oai".
Nội dung của trang lưu bút của ông Ban Ki-moon tại nhà thờ họ Phan Huy tạm dịch: “Tôi tỏ lòng cung kính sâu sắc khi đến thăm và thể hiện sự kính trọng sâu sắc đến Nhà thờ họ Phan Huy Chú và các thành viên khác của gia đình họ Phan. Cảm ơn vì đã gìn giữ ngôi nhà thờ này. Là một thành viên của họ Phan, nay làm chức Tổng thư ký LHQ, tôi cam kết với chính mình sẽ luôn cố gắng đi theo những lời dạy của tổ tiên.
Ban Ki-moon
Tổng Thư ký LHQ"
Nói về dòng họ Phan Huy tại Việt Nam, ông Diện nói "đây là dòng họ rất lớn khởi phát từ làng Thu Hoạch, tỉnh Hà Tĩnh. Sau đó có một chi rời ra đến xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai nằm ngay dưới chân Chùa Thầy".
"Dòng họ này có một số điểm đáng chú ý: Rất nhiều người trong dòng họ đi sứ, như Phan Huy Ích, Phan Huy Chú. Ông Phan Huy Chú đã đi sứ Trung Quốc hai lần với vai trò phó sứ, đi Indonesia một lần.
Dòng họ này nổi bật về văn chương và khảo cứu như TS Phan Huy Ôn, Phan Huy Vịnh, Phan Huy Chú, Phan Huy Sảng đều là nhà thơ, nhà sử học nổi tiếng của Việt Nam.
Đặc biệt là Phan Huy Chú, người cùng với Lê Quý Đôn được gọi là hai nhà bác học trong lịch sử Trung đại Việt Nam".
Trích dẫn tư liệu, TS Diện cho biết: "Theo nghiên cứu của TS Ngữ văn Lý Xuân Chung, nghiên cứu về bang giao Việt - Hàn thời xưa thì đoàn sứ bộ của Việt Nam và Cao Ly khi đến Yên Kinh - Trung Quốc thì được bố trí ở chung một nhà khách, thì họ có giao lưu với nhau và để lại rất nhiều thơ văn hiện có lưu ở viện nghiên cứu Hán Nôm cũng như ở Hàn Quốc".
"Cũng như cuộc xướng họa của sứ thần hai nước. Đặc biệt là chuyến đi sứ cầu phong dưới triều Tây Sơn, một trong những người trong đoàn đi sứ là cụ Phan Huy Ích. Và cụ cũng đã xướng họa thơ văn với các sứ thần Triều Tiên và để lại thơ văn đến tận bây giờ."

No comments:

Post a Comment