Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday 3 November 2016

NGUYÊN HUY = VIỆT NAM =VIỆN VIỆT HỌC

NGUYÊN HUY * ĐI MỸ



'Ði Mỹ,' ước vọng đắng cay của người tù cải tạo
(12/09/2011 06:33 PM) (Xem: 15130)
Tác giả : Nguyên Huy


Chiều Chủ Nhật tuần này, 11 Tháng Mười Hai, nhà văn Trần Yên Hòa sẽ ra mắt truyện dài “Ði Mỹ” tại hội trường Việt Herald, trên đường Moran, Westminster.

Chuyện “Ði Mỹ” của những người tù cải tạo, sau hàng chục năm trời trong “đáy địa ngục” như cuốn sách của Tạ Tỵ viết, là cả một biến cố lớn tưởng như không bao giờ có sau cuộc đổi đời 30 Tháng Tư, 1975 đối với quân cán chính VNCH. Biết bao nhiêu hoàn cảnh dở khóc dở cười cũng như biết bao nhiêu gian truân, khổ nhục đã đến với người cựu tù cải tạo, từ khi còn là những tin đồn cho tới khi có lệnh nhận đơn từ quận lên đến Nguyễn Du qua Nguyễn Trãi, ở Hàng Bài, Hà Nội,... kéo dài cả chục năm trời.

“Ði Mỹ” với nhà văn Trần Yên Hòa là một số góc cạnh của những cựu tù cải tạo trong biến cố này. Gần 300 trang sách, tác giả nhũn nhặn gửi độc giả trước khi vào chuyện: “Chuyện dài đi Mỹ thì có cả trăm hình vạn trạng. Mỗi người, mỗi gia đình có một hoàn cảnh riêng. Ở đây tôi chỉ ghi lại một vài chuyện nhỏ trong muôn hình vạn trạng kia thôi. Dĩ nhiên là hư cấu.”

Hư cấu ở đây vì tác giả dùng hình thức tiểu thuyết để viết về một sự kiện lịch sử diễn ra trong cuộc sống của người dân Việt sau cuộc đổi đời trắng thành đen mà đen thành trắng đối với toàn thể dân tộc Việt Nam kể cả Bắc lẫn Nam. Thực ra sự hư cấu đó hoàn toàn dựa trên thực tế, trên cuộc đời của những người có thật mà phần lớn còn sống tại hải ngoại. Thực tế vì “biến cố” ấy đã làm xao động cả một xã hội tưởng như đã chìm khuất trong “đáy địa ngục.”

Không phải chuyện “Ði Mỹ” chỉ liên quan đến người cựu tù mà nó còn liên quan đến hầu khắp mọi người mọi giới, mọi tôn giáo, mọi thành phần kể cả những thành phần đang là đảng viên của đảng đang cầm quyền.

“Ði Mỹ” trước hết là đổi đời cho người cựu tù, kế đến là vợ con họ, là thân quyến họ, là những người yêu, hôn phu, hôn thê của lớp con cái, là những cán bộ từ khóm phường qua quận huyện lên đến thành phố sang Nguyễn Du (nơi tập trung đơn xin đi Mỹ để chuyển lên Bộ Nội Vụ, Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội) và song song là Nguyễn Trãi (nơi các cán bộ ngoại vụ làm dịch vụ, tức làm tiền cho xuất cảnh), là những người môi giới nhà cửa đất đai, v.v...

Hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH sau 30 Tháng Tư, 1975 bị nhà cầm quyền cộng sản lùa vào tù hết, từ gian manh lập lờ qua hai cái Thông Cáo Học Tập Cải Tạo cho đến bắt bớ vô tội vạ những người có ít nhiều dính đến chế độ cũ, thậm chí có người không liên quan gì đến chế độ cũ nhưng bị bọn “cách mạng 30 Tháng Tư” vu oan cũng phải lên đường “học tập!” Chỉ có một số rất ít là được về sớm trước ba năm do là “gia đình cách mạng” hay do chạy được đúng chỗ... Còn lại phần lớn đều có trung bình từ năm đến bẩy năm tù cải tạo. Một số không nhỏ bóc tới hơn 10 cuốn lịch mà nếu không có được sự can thiệp của Hoa Kỳ thì có lẽ còn “mút chỉ” nữa.

Với số lượng ấy, sự thỏa thuận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cho đi định cư tại Mỹ quả đã là biến cố lớn làm rung chuyển cuộc sống của hầu hết mọi người đang phải sống trong vô vọng.

Nhắc lại chuyện cũ, nhà văn Trần Yên Hòa không phải muốn khơi sâu nỗi hận thù mà như ông viết trong lời “Mở” của cuốn sách rằng, “Ngày Ấy với Hôm Nay đã lâu lắm rồi. Ngày ấy là những ngày, những tháng, những năm của thế kỷ trước. Nói thì lâu lắc lắm vậy, nhưng thật ra, cũng chỉ mười chín, hai mươi năm thôi. Hôm nay, mỗi khi nhớ lại quãng thời gian đó, tôi vẫn thấy lòng mình có một nỗi chua xót, đắng cay, bàng hoàng, xúc động.”

Ðọc đến đây, chắc hẳn có không ít những người cựu tù, có người đã xênh xang áo mão trở về, nhớ về những ngày, những tháng những năm ấy. Có những chuyện khóc cười muôn vẻ. Như một cựu tù khi trở về thấy mình tay không thật sự, không vợ, không con, không nhà không cửa, không một đồng xu dính túi đành phải làm bất cứ một nghề hèn mạt nào để có được miếng ăn, bỗng có tin “đi Mỹ” thì được ngay một “mệnh phụ” thời đại tiếp rước về làm chồng, sắm cho xe Cub Dream II “để anh đi chạy giấy tờ cùng em.”

Nhưng bỗng nhiên chuyện ra đi khựng lại vì nhà nước giở trò đòi hơn thiệt với Hoa Kỳ nên việc ra đi của cựu tù phải hoãn lại. Chuyện hoãn lại trong chế độ Cộng Sản được hiểu là khó thể có lại nên “mệnh phụ” một sớm một chiều đổi ý, đòi lại chiếc xe và nhẹ nhàng mời anh ra khỏi nhà!!!

Ðó là một chuyện dở khóc dở cười có thật. Một chuyện khác, khi tin ra đi của người tù cải tạo được chính thức thi hành, một người tù thất lạc mất hai con trên đường di tản trên Tỉnh Lộ 7 bỗng được một gia đình cán bộ cấp thành phố làm thân, gửi gấm hai con của ông cho nhập hộ khẩu của người tù cải tạo này, mọi chuyện giấy tờ ông ta lo hết kể cả 10 cây vàng cho người tù làm vốn khi tới xứ người.

Còn không biết bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười với người cựu tù cải tạo khi được Mỹ nhận cho định cư. Có người đã nắm được giấy xuất cảnh từ Bộ Nội Vụ gửi về, ấy thế mà vẫn chưa đi được chỉ vì nhất định không nhận công tác của một cơ quan thuộc cơ quan bảo vệ chính trị thành phố gửi gấm hay người cựu tù nhất định không làm giấy hiến dâng căn nhà 3 tầng bị nhà nước tịch thu từ “ngày trình diện.”

Ðúng như tác giả Trần Yên Hòa viết: “Mỗi người, mỗi gia đình là một hoàn cảnh, một trường hợp,” không ai giống ai, khóc cười đủ mọi vẻ mà trong suốt lịch sử dân tộc Việt Nam có lẽ chưa bao giờ diễn ra như thế.

Ấy là bởi vì, sau 30 Tháng Tư, 1975 thì “cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng đi” nên già trẻ lớn bé được nếm mùi cộng sản vài năm rồi mới khao khát chuyện ra đi như thế. Niềm khao khát ấy không chỉ là người dân từng sống trong thời VNCH mà cả người dân miền Bắc đã phải chịu đựng trong chế độ Cộng Sản trước đó hàng mấy chục năm trời. Cái lạ là ngay cả những đảng viên cao cấp trong đảng, trong chính quyền cũng khao khát cho con cái được ra đi.

Trần Yên Hòa ra mắt sách “Ði Mỹ,” ông đã không chỉ viết tiểu thuyết để đọc chơi thay vì xênh xang áo mão về làng mà Trần Yên Hòa đã viết sử, viết về một giai đoạn lịch sử dân tộc bằng chính cuộc sống của dân tộc.

Quý bạn đọc muốn có “Ði Mỹ” xin liên lạc: (714) 360-7356 hay email: tran hao47@yahoo.com. Giá mỗi cuốn $20.

NGUYỄN HỮU NGHIÊM * MỘT NGƯỜI LÍNH



Câu chuyện về một người lính


Lời giới thiệu: Tôi được đọc câu chuyện về cựu trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã khá lâu, cách đây cũng trên 10 năm dưới cái tên “Chuyện người Đỗ Lệnh Dũng”, lúc đó mới chỉ là “chuyện viết từng kỳ” vì tùy theo cái hứng có thể nói khá bất tử “không lường trước” của Lê Thiệp, tôi hãnh diện lắm vì mình lại được ông bạn và cũng là ông anh “tin yêu” giao bản thảo với lời nhắn “ông muốn làm gì thì làm”. Bài đã được đăng nhiều kỳ và khán giả rất say mê khi tôi còn phụ trách tờ báo của người Việt tại Nhật. Đến năm 2006, thì nhận được truyện ký “Đỗ Lệnh Dũng” từ tác giả. Với cảm nghĩ đã có xem qua, tôi không mấy chú ý đến nội dung quyển sách mà sau này tôi mới biết là đã được “hiệu đính” khá cẩn thận và phong phú khác hẳn so với “chuyện viết từng kỳ”. Mấy hôm trước nhận được bài viết dưới đây từ một thằng bạn, tôi bị lôi cuốn theo rồi đọc lại quyển sách và cũng cảm thấy bất ngờ vì mình say mê đọc lại với tốc độ quá nhanh đúng như tên bạn nhận định: “Một tốc độ đọc khá nhanh so với tuổi về chiều….”.


Xin mời quí vị theo dõi bài tóm tắt dưới đây của Nguyễn Hữu Nghiêm và sau đó nếu có ….. điều kiện xin quí vị vào thẳng


Truyện ký “Đỗ Lệnh Dũng” của Lê Thiệp
Tủ sách Tiếng Quê Hương phát hành
P.O.Box 4653 – Fall Church
VA 22044 - USA


Vũ Đăng Khuê


Câu chuyện về một người lính


Phải chờ đến 8 năm kể từ khi quyển sách được xuất bản, và sau khi tác giả là nhà văn nhà báo Lê Thiệp qua đời vì chứng bệnh nan y thì tôi mới có dịp đọc “Đỗ lệnh Dũng”. Một phần vì cuộc sống khá bận rộn, và phần khác tôi đã đọc sơ qua phần giới thiệu về tác phẩm này được đăng tải trên vài tờ báo địa phương khi quyển sách ra mắt độc giả.





Đó là câu chuyện về một ông sĩ quan cấp Úy tên là Đỗ lệnh Dũng bị Việt Cộng bắt trên chiến trường, bị ở tù một thời gian rồi được phóng thích, sau đó được sang định cư ở Hoa kỳ. Tôi nghĩ chắc quyển sách này cũng giống như hồi ký của các người tù cải tạo mà tôi đã đọc trước đó. Như “Đại học máu” của Hà thúc Sinh, “Đáy địa ngục” của Tạ Tỵ, “Thép Đen” của Đặng chí Bình… nên thấy chưa cần phải tìm đọc vội. Cứ thế mà tôi lần lữa hẹn năm này cho đến năm khác cho đến cách nay mấy tháng trước. Một người bạn tâm giao thấy tôi thích đọc sách nên gửi mua tặng cho một số sách trong đó có quyển Đỗ lệnh Dũng. Thôi cứ xem đó là một duyên may, dù đến có hơi muộn màng. Lúc còn trẻ, dù có bận rộn cách mấy, một quyển sách tôi có thể đọc xong trong vòng hai, ba hôm. Bây giờ lớn tuổi, nhịp độ đọc sách của tôi chậm lại rất nhiều. Cho nên khi cầm quyển sách gần 400 trang, tôi hơi ngại ngần một chút, không biết bao giờ mới đọc xong. Nhưng qua ngòi viết tài hoa của nhà văn Lê Thiệp, quyển sách đã lôi cuốn tôi ngay từ trang đầu cho đến trang cuối. Vì vậy mới ba đêm là tôi đã đọc xong quyển sách. Một tốc độ đọc khá nhanh so với tuổi về chiều của tôi.


Quyển truyện kể lại một câu chuyện rất thật của một cựu trung uý tên là Đỗ lệnh Dũng. Qua gần 400 trang sách tác giả đã ghi lại cuộc đời của nhân vật chính từ những ngày sắp bước chân vào quân trường, những tháng ngày trong binh nghiệp, lúc sa cơ bị bắt trong trận đánh cuối cùng ở Đồng Xoài, Phước Long, rồi bị đày ải trong các trại tù CS, cuối cùng được phóng thích và sang đoàn tụ với thân nhân tại Hoa Kỳ. Quyển sách được viết ra không nhằm mục đích vinh danh, đề cao cá nhân hay viết về tiểu sử nhân vật Đỗ lệnh Dũng. Nhưng là câu chuyện về những nghiệt ngã, oan khiên của những người dân Việt Nam, mà Đỗ lệnh Dũng là một trường hợp điển hình, đã phải gánh chịu suốt mấy mươi năm trong và sau cuộc chiến tương tàn của hai miền Nam, Bắc. Và cũng qua quyển sách này chúng ta có thể hình dung được phần nào mức độ khốc liệt của cuộc chiến lúc bấy giờ. Xen vào giữa các chương, tác giả cho vào các tin tức, tài liệu cập nhật hoá tình hình chính trị, quân sự, xã hội của cả 2 miền trong thời chiến tranh và cả sau khi miền Nam bị thất thủ. Nhờ đó mà độc giả dễ dàng nắm bắt được bối cảnh không gian và thời gian của câu chuyện.


Nhân vật chính Đỗ lệnh Dũng thể hiện nhân dáng điển hình của người lính chiến miền Nam. Cầm súng chiến đấu vì bổn phận, trách nhiệm chứ không phải vì hận thù, thích bắn giết nhau. Bản chất của họ là những người nhân ái, giàu tình cảm. Khía cạnh nhân bản này đã được biểu hiện bởi người lính Đỗ lệnh Dũng khi anh ngậm ngùi kể lại: “...Có lần chúng tôi bắt được hai tù binh từ Bắc xâm nhập. Họ trẻ quá, hiền lành quá như những cậu học trò trung học. Tôi có thể làm tình làm tội họ, hoặc nữa là bắn họ. Tôi đã rùng mình trong suy nghĩ rằng mình có quyền định đoạt cái chết của người khác..”


Nhưng không vì thế mà người lính miền Nam chiến đấu thiếu hăng say, thiếu dũng cảm, can cường. Và cũng vì muốn là một người lính đúng nghĩa, Đỗ lệnh Dũng đã từ bỏ một chức vụ an nhàn, tùy viên cho một ông tỉnh trưởng, để xin ra được tác chiến cùng với các đồng đội của mình. Khi được giấy chấp thuận sang Hoa kỳ thăm gia đình, thay vì ở lại Sài Gòn chờ ngày ra đi , nhưng vì tình chiến hữu, đồng đội ông đã trở về thăm đơn vị của mình lần cuối, để rồi bị kẹt lại trong trận đánh mở màn cho cuộc tấn chiếm miền Nam một thời gian không lâu sau đó. Để rồi đến khi bị bắt làm tù binh, bị kẻ thù ngược đãi, hành hạ, ông thản nhiên chấp nhận, chịu đựng, không lời oán trách.


Khi bị bắt cầm tù, không phải phía đối phương tất cả đều là những kẻ hiếu chiến, khát máu. Đâu đó chúng ta vẫn còn thấy lấp lánh điểm sáng của lương tri, của tình người ở những người lính miền Bắc “...Không ngờ một sĩ quan trẻ tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt lại thuộc và hát vọng cổ hay như vậy. Những người lính ngồi chồm hổm phía ngoài đôi khi nổi hứng quăng thuốc lá cho tụi tôi, và có lần một người xông vào giữa đám tù vừa đi vừa chìa bao thuốc lá quăn queo mời. Anh ta nghênh ngang vừa đi vừa nói: “-Sợ đéo gì. Kỷ luật thì kỷ luật, ông đéo sợ...”


Thật ra họ cũng chỉ như là những con ngựa bị che mắt, nạn nhân của sự lừa phỉnh, dối trá: “Em tin là anh kể chuyện thật. Nhưng như vậy thì tụi em bị lừa, lừa từ lúc mới đẻ ra cho đến khi lớn, bị lừa cho đến già. Cả đời bị lừa, cả nước bị lừa.”


Quyển sách mở đầu với trận đánh tấn chiếm Đồng Xoài, Phước Long vào những ngày cuối năm 1974. Trận chiến này đã mở màn cho cuộc cưỡng chiếm miền Nam mấy tháng sau đó và cũng là trận chiến kết thúc cuộc đời binh nghiệp của Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng. Trận đánh rất khốc liệt từ lúc mở màn, quân trú phòng chiến đấu thật dũng cảm, nhưng dần dần trở nên yếu thế vì sự chênh lệch quân số và vũ khí giữa hai bên:


“Và người lính thám báo nhảy hẳn lên khỏi hàng bao cát, quay khẩu M72 bắn. Chiếc T54 trúng đạn chao sang một bên nhưng vẫn chầm chậm lăn về phía hàng rào, pháo tháp trên với nòng đại bác 100 ly hướng về phía chúng tôi. Tôi nhìn thấy họng đại bác khạc lửa và sau đó là tiếng nổ. Người lính M72 lãnh nguyên trái đạn, chiếc áo giáp bay ra như bươm bướm, trắng cả một khoảng giao thông hào.


Tôi không thấy thịt xương của anh ta, có lẽ cả người bị đạn 100 ly đẩy tuốt đi tận đâu. M72 không đủ sức hạ T54 vì chiến xa của địch đã được cải tiến thành xe hạ thấp và có độ nghiêng khiến đạn M72 bị trượt đi.”


…………………………………………………………………………………………………


“…Vừa lui cui chạy dọc theo phía bao cát tôi thấy hai nghĩa quân đang đứng ôm M16 hướng ra ngoài. Một trái 122 ly nổ giữa sân, đất cát bắn tung toé. Chiếc cột cờ gãy ngang, lá cờ vẫn vướng vào dây rách lỗ chỗ. Người nghĩa quân quay sang nói với tôi:


- Tội lá cờ, để em ra lấy.


Tôi chưa kịp cản thì anh ta đã lao ra giữa sân. Một trái 122 ly nữa nổ tung. Người nghĩa quân ngã gục trên lá cờ và chỉ một giây sau đó, xác anh bật tung lên vì trái lựu đạn của anh có lẽ đã tuột kíp nổ. Người nghĩa quân nằm đó bất động, cờ tẩm máu đỏ rách bươm quấn lấy đầu anh….”


Những cái chết thật bi hùng của người lính chiến VNCH. Sau đó Đồng Xoài thất thủ và trung úy Đỗ lệnh Dũng bị giặc bắt khi trên đường tháo chạy. Và từ đó ông bắt đầu những năm tháng bị giam cầm đày ải trong ngục tù CS được mỹ từ hoá bằng tên trại cải tạo. Trong những ngày đầu bị cầm tù, ông ngồi tưởng nhớ lại những ngày tháng trước của mình. Ở đây tác giả Lê Thiệp đã dùng kỹ thuật flashback khá tài tình. Đây là con dao hai lưỡi, nếu dùng một cách khéo léo sẽ làm cốt truyện thêm sinh động, nhưng ngược lại nếu vụng về sẽ làm người đọc dễ bị lầm lộn về thời gian, không gian, không biết chuyện nào xảy ra trước, chuyện nào xảy ra sau.


Nhưng quyển sách không chỉ toàn là những máu lửa giết chóc trong chiến tranh, những đày đoạ tàn bạo của ngục tù và cai tù CS. Trong quyển sách không thiếu những đoạn văn thật đẹp, thật ướt át đầy tình cảm. Như cuộc tình đầu tiên:


“Dung siết nhẹ tay tôi không nói năng gì. Tôi ngửi thấy mùi thơm của hơi thở. Tôi nghe thấy cả tiếng tim mình hay tiếng tim Dung đang đập. Đá ở bãi Ô Quắn nhiều và lớn. Hai đứa mò mẫm, tôi đưa tay cho Dung níu, kéo nàng lên.


Sóng biển rì rào đập vào đá, bọt tung trắng xóa. Đêm thẫm mầu ngoài xa. Khi tôi hôn nàng, mới đầu Dung như muốn đẩy tôi ra nhưng ngay sau đó, tay nàng vòng qua cổ tôi. Hai đứa hôn nhau như thể đã chờ đợi từ kiếp nào. Môi Dung nóng bỏng, đượm vị mặn của biển. Tôi lùa tay trong tóc nàng. Dung từ từ ngả người trên tảng đá, hai tay xỏa ra, ngực phập phồng trong chiếc áo pull xanh mầu lá chuối. Tôi chống tay cúi xuống. Mặt nàng lung linh trong đêm, như thật, như mơ, như từ cõi xa xăm nào hiện về, tôi nhẹ nhàng và rồi chúng tôi quấn lấy nhau. ..”


Nhưng rồi cuộc tình cũng không vẹn tròn, đôi tình nhân phải chịu cảnh ly tan, chia lìa theo vận mệnh đau thương của đất nước. Anh bình thản chấp nhận, cũng như đã chấp nhận cái số phận nghiệt ngã của định mệnh dành cho mình. Tuy nhiên cuối cùng anh cũng có được một người con gái thật lòng yêu thương anh, cảm thông những khổ đau, bất hạnh mà anh đã phải gánh chịu. Nếu cuộc tình thời trẻ tuổi thật sôi nổi, cuồng nhiệt thì mối tình sau cùng này, sau những đau thương, bão tố của cuộc đời, thật dịu dàng, đằm thắm. Dịu dàng, đằm thắm như người con gái đã cùng với anh đi suốt cuộc đời còn lại, từ khi anh còn bị cầm tù cho đến sau khi anh được phóng thích.


“Chúng tôi ngồi như vậy khá lâu, tay Thu úp lên tay tôi. Cả hai không nói năng gì. Một niềm hạnh phúc tươi mát lan khắp người, tôi như không còn là tôi nữa. Tôi quên hết những đoạ đày. Tôi coi thường những đau khổ đã trải. Từ bàn tay mát rượi của Thu tôi thấy mình đã thực sự hồi sinh, đang ngoi lên, trồi lên để sống lại…”


Sau khi ra khỏi tù một thời gian thì ông kết hôn, tìm được việc làm, đời sống gia đình tương đối ổn định. Những tưởng sẽ sống nốt cuộc đời còn lại ở mảnh đất quê hương khốn khổ. Nhưng rồi vì tương lai của con, không muốn chúng bị nhồi sọ bởi một nền giáo dục nặng về tuyên truyền, giáo điều, nhẹ về kiến thức, luân lý, anh cùng vợ con đành phải ngậm ngùi lià bỏ quê hương mến yêu để đi sang miền đất tự do Hoa kỳ, đoàn tụ với những thân sau nhiều năm chia cách.


Đóng quyển sách lại, tôi không khỏi bâng khuâng nghĩ ngợi. Số mệnh của Đỗ lệnh Dũng cũng là số phận của tất cả người dân VN gắn liền với vận mệnh ngả nghiêng, tăm tối của đất nước. Dù sao anh còn có được một kết cục có hậu, được sang miền đất tự do, nhưng còn nhiều người khác, mang số phận nghiệt ngã, bi thương cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt. Và cũng như nhiều người khác, Đỗ lệnh Dũng chỉ muốn là con người bình thường, chẳng bao giờ muốn là một anh hùng. Khi mặc áo lính anh chỉ mong làm tròn bổn phận của người lính chiến, chiến đấu để bảo vệ non sông và có trách nhiệm với đồng đội, chiến hữu. Như chuyện cứu mạng Đại Úy cố vấn Sam Graves, anh chỉ xem “không có gì ghê gớm, vì đó là bổn phận của tôi, và hơn nữa vì chính mạng sống của tôi và binh sĩ dưới quyền”. Điều này thấy thật rõ nét ở những giòng chữ cuối cùng của quyển sách. Sau khi dự buổi lễ nhằm tuyên dương những anh hùng Mỹ quốc, mà anh là một trong số người được tuyên dương bởi những công trạng trong trận chiến VN, khi trở về phòng anh đã tâm sự với người vợ yêu thương :” Anh đâu có muốn làm anh hùng…Anh chỉ muốn một đời sống giản dị, bình thường, không bắn giết, không súng đạn. Ước ao đó từ hồi nhỏ nhưng rồi cả đời anh là chiến trận, là tù đày, là khổ nhục. Làm anh hùng để làm gì? “. Điều anh thật lòng mong muốn là được sống bình yên trong một xã hội công bằng, nhân bản, tôn trọng quyền làm người. Đó cũng là ước nguyện chung của những người dân Việt trong đó có những người đang bị đày ải, cầm tù vì đã dám lên tiếng nói tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền. Nhưng biết đến bao giờ.

Mùa Thu 2014,

Nguyễn Hữu Nghiêm

Tuesday, September 8, 2015

MAI THẢO * CÕI TẠM



CÕI TẠM

MAI THẢO

Nghỉ hè nghỉ phép, ta thường đi chơi xa, trú ngụ tạm tại khách sạn. Dăm ba bữa nửa tháng, lại trở về nhà. Thường khi về nhà, lọt vào khung cảnh cũ, ngả mình trên chiếc giường quen thuộc, ta luôn luôn cảm thấy thoải mái, thú vị. Khách sạn là cõi tạm, nhà là cõi thực. Cuộc đời này là một cõi tạm. Hầu như mọi người đều nghĩ như vậy. Nhưng cái cõi tạm này, chúng ta tạm trú hơi lâu, quen hơi quen tiếng, nên khó rời. Biết là tạm mà vẫn cứ thích ở... khách sạn!


Ông bạn da đen của tôi, rất tha thiết được chầu Chúa, đạo Cơ Đốc thuần thành, Chủ Nhật nào cũng đi nhà thờ, trong túi không bao giờ quên tờ giấy hai chục đô cúng dường, cuốn Thánh Kinh luôn luôn đeo theo người, nói câu nào cũng mời Chúa về góp tiếng cho chắc ăn. Một bữa, thấy ông vất vả với công việc, tôi giỡn.
“Này, Gabriel, cuộc sống coi bộ nhiều mồ hôi quá nhỉ?”
Bạn tôi cười nhe hàm răng trắng lạnh.
“Đời mà! Chúa đã phán “Con phải đổ mồ hôi trán lấy bát cơm ăn”. Mình cứ phải theo ý Chúa vậy chứ sao.”
Tôi làm bộ tỉnh phán theo.


“Tôi thấy cậu là con cưng của Chúa, sao không xin Chúa cất về ngồi bên chân Chúa cho nhàn hạ cái thân!”
Gabriel lắc đầu quầy quậy.
“Còn sớm quá! Tôi còn mấy đứa con nhỏ phải nuôi, chắc Chúa cũng hoãn cho một thời gian nữa chứ!”
Bạn tôi không nói rõ một thời gian là bao lâu, nhưng bằng vào cái lắc đầu hung hãn như vậy, tôi dè chừng chắc là phải lâu lắm!


Một ông bạn khác, ung thư thời kỳ cuối, con cái đã chồng vợ đâu vào đấy, đời chẳng còn gì phải lo lắng, cuộc sống rất thoải mái về vật chất, nhưng cái đau đớn của tật bệnh thật khôn lường, chép miệng than thở khi tôi tới chơi.
“Mình cũng tới tuổi rồi. Nhưng nếu Trời cho ít năm nữa thì quý hóa quá!”
Sống có vất vả, đau đớn đến thế nào chăng nữa, vẫn cứ thích bám vào cõi tạm. Sao vậy? Bởi vì cái cõi mà người ta gọi là vĩnh hằng, miên viễn, vô ưu... ta chưa hề biết tới chăng? Hay là bởi vì từ cõi tạm bước qua cõi thật đó, người ta phải xuôi tay nằm dưới ba tấc đất hoặc uốn người trong ngọn lửa thiêu? Toàn những trò khó chơi cả.


Nhà sinh học Susanne Wiigh-Maesak, người Thụy Điển, vừa phát minh ra một trò mới. Trò này coi bộ dễ chịu hơn. Thi hài người chết sẽ được làm lạnh cực nhanh đến -18 độ C và sau đó nhúng vào nitơ lỏng có nhiệt độ -196 độ. Thi hài, sau khi được lấy ra khỏi dung dịch siêu lạnh, trở nên giòn tan như kính và vỡ vụn thành một hợp chất dạng bột. Tất cả số nước còn lại được hút vào một khoang chân không, trước khi cho chạy qua một màn kim loại để lọc bỏ tất cả những vật thể còn sót lại (những thứ cấy ghép trong thân thể) chưa phân hủy.

Bột thi hài, sau đó, có thể được thiêu đốt, hoặc được chôn trong một quách làm bằng tinh bột bắp, đặt trong hố nông khoảng 30 phân. Sau khoảng một năm, oxy và vi khuẩn sẽ phá hủy chúng hoàn toàn, biến thi hài trở thành cát bụi. Bà Wiigh-Maesak cho biết bà đã đăng ký bản quyền phương pháp này ở 35 quốc gia. Phương pháp này giúp tránh làm vẩn đục môi trường như hai phương pháp thông dụng hiện nay là hỏa thiêu và chôn dưới đất quá sâu làm trì trệ quá trình phân hủy.


Không phải là các nhà sinh học, mấy ông bạn tôi cũng bầy ra nhiều cách... vượt biên từ cõi sống qua cõi chết vui lắm. Như ông Du Tử Lê chẳng hạn.

khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Ông Luân Hoán còn cãi cọ với... thinh không.
không từ đất sao phải về với đất
thịt xương này không thể mất khơi khơi
khi tôi chết xin đem giùm thi thể
chia cho thù lẫn bạn nhậu chơi
Ông Lưu Nguyễn cứ thiên thai lơ lửng.
mai này ta sẽ ra đi
người ơi có nhớ có gì nhắn không
trăm năm mây trắng bềnh bồng
về nơi đã đến mà lòng thảnh thơi
Dặn dò rối rít xong các ông ấy đi... uống cà phê. Bởi vì cái chết vẫn chưa trong tầm mắt. Cõi tạm này mới đích thực trong tầm tay. Tạm lâu ngày dễ có ảo tưởng đây mới là cõi thật.


Đời người được bao lâu? Trăm năm trong cõi người ta. Trăm năm? Mấy người được trăm năm? Bà cụ 114 tuổi của kỷ lục Guinness vừa qui tiên, nhà cầm quyền Việt Nam đang vận động cho một cụ bà Việt nam, cũng 114 tuổi, được ghi vào thay thế. Lóng rày, coi bộ Việt Nam ham giữ kỷ lục thế giới dữ. Hết bánh dầy, bánh chưng, bánh tét lớn nhất thế giới (có ở đâu khác làm thứ bánh này không nhỉ?), nay muốn đầu tư vào kỷ lục tới sự sống của con người (bệnh kỷ lục có phải là một biến tấu thời mở cửa của bệnh thành tích ngày cũ chăng?). Kỷ lục là thứ xịn. Thường thường bực trung khó với tới. Ông anh tôi bảo cứ sáu chục cái xuân già là gỡ đủ sở hụi rồi. Thêm được năm nào là bonus của trời đất, cứ hân hoan mà cám ơn!


Trong cái thời gian sống chỉ là tích tắc so với đời sống của vũ trụ, con người quậy như điên. Đủ món ăn chơi. Kèn cựa, khích bác, tranh dành, lừa đảo, xô đẩy, chém giết... nhau. Mỗi người cố thu vén cho riêng mình. Nhà sang, xe xịn, lợi danh, tiền bạc... Mặc sức mà vung tay vung chân. Mặc sức mà lèn cho đầy túi tham. Nhiều người sống trong cái sân si tối tăm trong suốt cuộc sống. Trẻ, tiết vịt còn chảy rần rần trong người, hung hăng con bọ xít đã đành. Già, máu tưởng đã phải nhiễm lạnh mà vẫn cứ sân sân si si phát khiếp. Như Bà Margaret Ann Thomas-Irving, 58 tuổi, cư dân ở Hartford, Connecticut chẳng hạn. Từ tháng 10/2002 đến tháng 7/2003, trong vòng chưa đầy một năm, đã một mình cướp nhà băng tới 12 lần. Tổng cộng số tiền cướp được là 19 ngàn đô. Vũ khí của bà chỉ là khẩu súng đồ chơi con nít, hoặc ngon hơn, chẳng súng siếc gì cả chỉ dọa nhân viên ngân hàng là trong ví có súng là họ nộp tiền ngon ơ!


Cướp có nghệ thuật hơn là hai vợ chồng James Roland Clark, 71 tuổi, và Deloris Jane Clark, 66 tuổi, dân Florida. Ông chồng xách một bao cát vào ngân hàng dọa là chất nổ, bà vợ rồ sẵn máy xe chờ ở ngoài cửa. Cướp xong ông chạy ra phóng lên xe vù mất. Nhờ một gói thuốc nhuộm cho phát nổ sau đó cảnh sát mới tóm được hai ông bà già chịu chơi này.


Bà già Connie Parker, 74 tuổi, cư ngụ ở Nassau, tiểu bang Nữu Ước vừa trúng số độc đắc 25 triệu. Khi đi lãnh thì, sau khi trừ thuế má, bà cầm tay được 7,3 triệu. Bà ôm chặt lấy tiền, nhất định không chia cho ông chồng Kenneth Parker, 77 tuổi, đang bị ung thư phổi thời kỳ cuối. Ông chồng cho biết là ông đã đưa cho bà 20 đô để bà đi mua số nhưng bà cãi lại bà đã mua số bằng tiền riêng của bà. Ông chồng tức giận đâm hai đơn một lúc. Một đơn đòi chia tiền, một đơn xin ly dị sau 16 năm rưỡi chung sống. Rút cục, cụ đi đường cụ tôi đường tôi, và bà Connie phải thỏa thuận chia cho ông chồng một số tiền không rõ là bao nhiêu nhưng, theo tiết lộ không chính thức, là một phần ba số tiền bà lãnh.
Thất thập cổ lai hy. Hiếm có thiệt! Sống đã từng ấy tuổi tưởng tay chân đã làm biếng nhấc lên nhấc xuống, ai ngờ vẫn cứ chụp giật như máy. Để làm chi? Ôm về cõi viên mãn chăng? Cõi bình an đó có cần những thứ phù phiếm của cõi tạm này không?


Một cặp vợ chồng già đã trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Họ ăn uống kiêng khem và tập thể dục hàng ngày. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt, họ lên thiên đàng và được thánh Phêrô đón tiếp nồng hậu. Thánh Phêrô đưa hai người đi coi nhà bếp khổng lồ, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi golf... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi thánh Phêrô.
“Chúng tôi có phải trả tiền cho những thứ này không?”
“Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà!”
Đến giờ ăn, thánh Phêrô đưa hai cụ đến môt phòng ăn sang trọng, thức ăn ê hề. Cụ ông hỏi.
“Thưa Ngài, tất cả các món ăn này cũng miễn phí cả sao?”
“Tất nhiên!”


Cụ ông lại rụt rè hỏi tiếp.
“Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đường, cholesterol chứ ạ?”
“Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đường cơ mà! Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị mập phì, đái đường hay nhồi máu cơ tim gì cả.”
Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, quay sang cụ bà quát to.
“Tất cả do lỗi của bà! Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục hàng ngày thì tôi đã lên đây sớm hơn mười năm rồi!”


Cái cõi mông lung đó đâu phải chỉ có thiên đường. Những nơi khác có vui như vậy không?
Hai bợm nhậu ngồi bên chai rượu đã cạn quá nửa. Một ông hỏi.
“Ông bạn nghĩ là có thế giới bên kia hay không?”
Ông bạn gục gặc đầu.
“Có chứ! Mà chắc ở bển cũng vui vẻ lắm, nhậu nhẹt lu bù.”
“Sao ông biết?”
“Thì ông thấy đấy. Mấy chả đi có cha nào thèm quay về đâu!”


Dương sao âm vậy. Dân gian vẫn cứ tin như thế. Cái cõi đầy bí ẩn đó được hiểu như là một nối dài của cõi tạm này, cũng có cuộc sống và những cung cách sống cụ thể như nhau. Vậy nên mới có dịch vụ gửi UPS không thiếu thứ gì qua cõi mờ ảo đó. Nhà cửa, xe cộ, quần áo, nồi niêu soong chảo, vàng bạc, tiền đô giấy lớn 100.000, và cả... điện thoại di động nữa! Mấy bà thương chồng cũng không quên gửi những nàng hầu trắng trẻo xinh đẹp xuống cho các ông chồng bớt cô đơn. Dĩ nhiên, trước khi hóa vàng, mấy bà không quên rạch mặt, chọc mù mắt hình nhân để thỏa cơn ghen kéo dài qua hai cõi!


Tin như thế bị coi là tin nhảm. Mê tín! Nhưng mâm cơm cúng ngày giỗ ngày tết chắc có ý nghĩa khác. Không ai nghĩ là người từ cõi kia về ăn như chúng ta ăn (cơm canh còn nguyên đó chứ có hụt đi chút nào đâu!) nhưng làn khói nhang ấm áp mời người quá cố về thụ lộc được hiểu như là một cách tưởng nhớ tới người thân đã bước sang cõi khác trước chúng ta. Tấm lòng thương tưởng của chúng ta thể hiện qua cách cúng những món ăn mà người thân quá cố ưa thích khi còn sinh tiền.


Trong nghĩa trang, một ông dọn cơm canh cúng trên mộ vợ. Một ông người bản xứ thành kính đặt bó hoa trên ngôi mộ bên cạnh. Lễ bái, cầu kinh xong, ông bản xứ hỏi ông Việt nam.
“Bộ ông tin rằng vợ ông có thể về ăn được những thức ăn ông cúng như vậy chăng?”
Ông Việt nam bình thản hỏi lại.
“Bộ ông cũng tin rằng vợ ông có thể về ngửi được bó hoa ông đặt trên mộ kia chăng?”


Chỉ một bước ngắn, chúng ta chuyển từ cõi này qua cõi khác. Ai cũng ngại ngần trước nhịp bước vô định này. Cõi tạm, cõi... khách sạn, chúng ta đã quen nếp sống. Cõi thực, cõi... nhà, chúng ta u u minh minh. Cái bước dùng dằng từ một chỗ đứng cân bằng trên mặt đất sang chỗ chênh vênh mây trời là cái bước mỗi con người phải trải qua. Cái điều chắc chắn sẽ xảy ra này chúng ta không muốn nghĩ tới. Càng thêm tuổi, chúng ta càng làm lơ không muốn nghĩ tới. Không nghĩ thì làm sao mà hiểu được.
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.


(Mai Thảo)
02/2004

TRẦN THÀNH * GÁI VIỆT Ở MALAYSIA



Nhan sắc Việt ở Malaysia: tha hương cơm áo Trần Thành

The Star, ngày 3-9-2015 đưa tin Sở Di Trú Malaysia đã bố ráp một tiệm bar ở Taman Melaka Raya, và bắt giữ 40 phụ nữ Việt Nam bị cáo buộc cung cấp dịch vụ tình dục cho các khách hàng. Đây là điều không bất ngờ. Ban đêm, chỉ cần đặt chân vào các bar, pub ở 4 thành phố lớn Penang, Johor, Klang và Kuala Lumpur là có thể gặp gái Việt. Ban ngày, ở các tụ điểm giải trí công cộng cũng gặp gái Việt.

 
Miếu Phật 4 mặt trên đường Jalan Alor thường được các cô gái Việt thắp nhang cầu khấn sau khi ghé một quán Việt Nam ở đó để ăn uống, tán gẫu trước và sau khi làm việc tại Beach hay Tiệm cà phê Việt Nam.
“Bộ luật Sharia của Hồi giáo Malaysia không bao giờ tha thứ cho việc mua bán dâm. Đây là tội ác và báng bổ thần thánh có thể bị ném đá đến chết hay ít nhất cũng phạt roi cho tới tàn tật cả đời. Bởi vậy nên ở đây cho phép khu đèn đỏ, nhưng không hề có gái mãi dâm là người bản xứ”. Luật sư Trần Thành có 6 tháng sinh sống và làm việc tại Singapore và Malaysia, nói và nhìn nhận các cô gái Việt làm “bướm đêm” ở Kuala Lumpur nhiều đến độ cứ ra giữa phố rồi chửi thề bằng tiếng Việt, bảo đảm sẽ tới tấp nghe chửi lại cũng bằng tiếng Việt từ những nhan sắc Việt.



“Xuất khẩu lao động” để bán dâm
Trên trang bản ngữ Parsmedia, cho biết trong số 40 phụ nữ Việt bị tạm giữ nói trên, có nhiều cô gái phục vụ tình dục mới chỉ có 16 tuổi. Cũng theo trang này, thì Malaysia là một trong 10 quốc gia có số lượng gái mãi dâm nhiều nhất.


Năm 2013, hãng thông tấn Bernama của Malaysia đưa tin có 3.456 người Việt Nam trong tổng số 12.434 phụ nữ nước ngoài hành nghề mại dâm bị bắt giữ ở Malaysia vào năm 2012. Phần lớn gái bán dâm Việt Nam thường hành nghề ở các hộp đêm, các quán karaoke và tiệm massage. “Thái độ phục vụ của họ (gái bán dâm Việt Nam) là không đòi hỏi lắm, nhất là về tiền bạc. Điều này khiến họ trở thành lựa chọn lý tưởng cho các khách hàng. Chẳng hạn như nếu họ được khách yêu cầu mời rượu thì khách hàng chỉ boa cho họ tiền phục vụ thôi chứ không cần phải boa thêm nếu khách yêu cầu họ ngồi uống cùng. Điều này cũng tương tự trong trường hợp bán dâm. Nếu khách hàng trả họ 100 ringgit cho dịch vụ massage bằng cơ thể, thì số tiền đó sẽ được họ hiểu là 'tiền trọn gói', thậm chí có nghĩa là khách hàng có thể yêu cầu quan hệ tình dục”. Một quan chức của Cục phòng chống tệ nạn, cờ bạc và hội kín của Cảnh sát Hoàng gia Malaysia, cho biết.



Là đất nước có nhiều người theo đạo Hồi nên không có phụ nữ nào ở Malaysia dám làm nghề mại dâm. Vì thế, các nàng “bướm đêm” ở đây chủ yếu là gái ngoại quốc, đến từ Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam... Tại các nhà hàng, quán bar sang trọng, giá tiền cho mỗi lần “đi khách” của các cô gái thường khá cao, từ 150-300 ringgit (1 ringnit tương đương 8.000 đồng); còn “đi tàu nhanh” khoảng 60-100 ringgit.



Cục phòng chống tệ nạn, cờ bạc và hội kín của Cảnh sát Hoàng gia Malaysia, cho biết phụ nữ Việt Nam, nhất là mấy cô trẻ đẹp đã không ngừng lợi dụng nhập cảnh vào Malaysia với lý do du lịch... để bán thân cho những “khu đèn đỏ”. Tuy nhiên, trong số các cô gái mại dâm ở đất nước Hồi giáo này, cũng có rất nhiều người là nạn nhân của những kẻ buôn người. Các cô bị lừa đi xuất khẩu lao động hoặc làm những ngành nghề lương thiện khác, nhưng khi đến xứ lạ quê người đã bị dồn vào đường cùng, buộc phải bán thân.


“Tôi là người Việt Nam”


Khác với Việt Nam mua bán dâm không được pháp luật thừa nhận thì tại Malaysia, đó là cái “không thể thiếu” của ngành công nghiệp du lịch. Tuy nhiên, “không thể thiếu” không có nghĩa là ai muốn bán dâm thì cứ qua. Là đất nước theo đạo Hồi nên hầu hết mại dâm đều là người Việt, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Campuchia, Nga, Pháp, Nhật, Philippines…, không có người Malaysia.


Đại úy cảnh sát trưởng khu vực Rawan Selangor, ông Gudian Singh nói vui với tôi rằng: “Người Việt đi du lịch Malaysia đừng ngại bất đồng ngôn ngữ. Chỉ cần đứng giữa một khu phố sầm uất hỏi to: Ở đây có ai là người Việt Nam không? Bạn sẽ nghe mọi người xung quanh trả lời: Tôi là người Việt Nam”.

Quả thật, ở bất cứ nơi đâu tôi cũng gặp những cô gái trẻ Việt Nam. Ban đêm, hầu như tất cả những điểm giải trí như karaoke, bar, pub của thành phố Kuala Lumpur đều có tiếp viên là gái Việt Nam. Nhan sắc Việt Nam nổi tiếng và có giá đến mức, những cô gái Thái Lan, Myanmar phải cố học tiếng Việt để tự nhận với khách phương Tây mình là gái Việt. Thậm chí, trước đây tại giao lộ Jalan Ramlee - Jalan Perak giữa trung tâm Kuala Lumpur, có một bar đã từng mang tên Thai Club rất nổi tiếng bởi những cô gái Thái Lan làm tiếp viên. Sau đó, bar này đã trương biển hiệu bằng tiếng Việt “Tiệm cà phê Việt Nam”. Tất nhiên, những cô gái Thái Lan đã được thay thế bởi những cô gái Việt Nam.
 
 
Quán cà phê Casanova, số 16-22, Jalan Alor, Kuala Lumpur. Địa chỉ quen thuộc của gái mại dâm người Việt.

Ngoài bar “Tiệm cà phê Việt Nam”, Kuala Lumpur còn những tụ điểm nổi tiếng mà bất kỳ khách làng chơi ở các nước phương Tây đều đến như Beach bar, Ù Lủ pub, Sky bar, Karaoke Napoli... Cùng với một người bạn nhà báo từ Việt Nam sang, tôi bước vào bar “Tiệm cà phê Việt Nam”. Ánh sáng thì thiếu, tiếng nhạc lại thừa hơn mức cần thiết. Một gã bảo vệ người Myanmar dìu chúng tôi qua ánh sáng nhập nhoạng, đến một chiếc bàn còn trống. Ngay lập tức, 6 cô gái trẻ sexy áp sát, thân thiết đến vượt ngưỡng bình thường. Một cô ra dấu hướng dẫn chúng tôi cách nói chuyện át tiếng nhạc lớn trong bar. Dùng một ngón tay bịt vào lỗ tai người nghe theo nhịp nói của mình. Quả nhiên, với cách đó, không cần gào thét vẫn nói chuyện được. Sau đó, cô ta hỏi chúng tôi là người nước nào lần lượt bằng các thứ tiếng Nhật, Hoa, Thái, Anh. Khi tôi trả lời mình là người Việt Nam, ngay lập tức, các cô rời bàn nhanh như lúc đến…

Một gã quản lý tiến đến cho biết, rất hoan nghênh khách đến bar nhưng rất tiếc, các cô gái Việt không thích tiếp khách Việt.

Cay đắng xứ người

Từ nhiều năm nay, gái mại dâm “chui” người Việt tại Kuala Lumpur hoạt động chủ yếu ở 3 nơi, đó là Câu lạc bộ Beach Club, Tiệm cà phê Việt Nam (cả hai đều nằm trên đường P. Ramlee) và vũ trường Black Magic. Ngoài ra, còn một số nơi nữa nằm trên đường Alor, đường Hicks, đường Thambipillay nhưng đây là những điểm mại dâm rẻ tiền, khách chơi hầu hết là dân bản xứ.

Mại dâm hợp pháp thì hùng cứ ở khu đèn đỏ thuộc quận Lorong Haji và Chow Kit. Riêng gái mại dâm cao cấp, địa bàn hoạt động của họ thường là các hộp đêm ở Bukit Bintang, Sultan Ismail, Horley và Imbi. Nếu ở Beach Club và Tiệm cà phê Việt Nam, giá cho mỗi lần “đi khách” thường là 100 ringgit thì ở Black Magic hoặc Bukit Bintang, vì sự sang trọng nên khách phải trả từ 150 đến 200 ringgit.

Một trong những địa chỉ được nhiều dân chơi biết đến là khách sạn Casanova, số 16-22, Jalan Alor, Kuala Lumpur. Đây là “đại bản doanh” của gái mại dâm người Việt. Lúc tôi còn công tác ở Singapore, thì Casanova có giá phòng rẻ nhất là 125 ringgit/ngày, nhưng lại chia làm nhiều loại, loại phòng 2 giường, 3 giường, 4 giường, 6 giường… Vì vậy, nếu 6 người ở chung với nhau 1 phòng thì mỗi ngày, mỗi người chỉ tốn 20,3 ringgit. Thường thì một số má mì người Việt đứng ra thuê sỉ luôn mấy phòng để đón khách là những cô gái mới chân ướt chân ráo từ Việt Nam qua. Cứ mỗi cô, má mì cho thuê lại với mức “phụ thu” 2 ringgit. Các cô gái ở trọ chừng 25 ngày thì phải về lại Việt Nam để đối phó với thời hạn lưu trú 30 ngày của Sở Di trú Malaysia. Vài bữa sau qua tiếp. Tuy nhiên, cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra nên hầu hết phụ nữ, chủ yếu là Việt Nam, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc, nếu không đi theo tour thì chỉ được phép ở lại Malaysia 2 tuần.



Nếu bị bắt quả tang khi đang “đi khách”, ngoài việc đóng tiền phạt, các cô sẽ bị trục xuất và bị cấm nhập cảnh ít nhất là 5 năm. Thế nên, dù bị khách làng chơi hành hạ hoặc bạo dâm chăng nữa, họ cũng đành nín chịu.
Trong giới “bướm đêm” hay kể câu chuyện về một gái mại dâm Việt “đi” với một Tây đen cứ mỗi giờ 200 ringgit. Cuộc mây mưa kết thúc, cô vào nhà tắm rồi lúc bước ra, gã Tây đen yêu cầu cô “chiều” thêm lần nữa. Do chưa hết giờ nên cô đành gật đầu. Tưởng thế là xong, ai dè vừa ra khỏi nhà tắm, gã lại ngoắc cô lên giường. Đến lần thứ tư, cô mới biết mỗi lúc cô vào nhà tắm lại có một gã bên ngoài mở cửa nhảy vào thế chỗ. Và bởi vì gã nào cũng đen thui nên cô không phát hiện ra. Sau lần ấy, cô nằm liệt giường cả tuần lễ…



Nhìn chung, khách làng chơi tại Malaysia hầu hết du lịch tour từ nhiều nước của cộng đồng nói tiếng Hoa như Đài Loan, Macau, Hongkong, Singapore và dĩ nhiên nhiều nhất vẫn là Trung Quốc đại lục. Tất cả những quốc gia nói tiếng Hoa ấy được các cô gái Việt gọi chung là người Tàu hay tiếng Tàu và khi giao tiếp với họ chỉ cần học vài tiếng phổ thông là đủ.


_

HÀ VĂN THỊNH * QUÂN ĐỘI VIỆT CỘNG

Quân doi duy nhat trên the gioi kô " Xai" dên quân truong 
 Dân Luận
Hà Văn Thịnh
3-9-2015
Đọc những bản tin về Lễ diễu binh nhân Kỷ niệm 70 năm ngày Quốc khánh (tôi không xem TV), không thể tin ở mắt mình: Một sĩ quan Quân y, đeo quân hàm trung tá (trên ve áo), sinh năm 1993(!), ngực gắn đầy huân, huy chương các loại? Cái tức chỉ mới ở cấp độ… vừa vừa. Thế nhưng, đọc tiếp, thấy ông Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng, trả lời báo chí rằng, tuy là thiếu úy, nhưng theo quy điịnh, phải đeo hàm trung tá cho… thống nhất (Motthegioi.vn; 09:55, 3.9.2015) thì sự uất nghẹn lên đến tận cùng! Thì ra, để đảm bảo tính THỐNG NHẤT, DUY NHẤT, người ta có thể đạp đổ mọi giá trị?
Chưa bàn đến chuyện cộng đồng mạng đang xôn xao: Thiếu úy Quân y Phạm Trúc Sơn Quỳnh là… sinh viên trường Đại học Thương mại (vì chưa kiểm chứng được); chỉ xin luận về cái việc giả dối luôn được coi là sự thật, nó nguy hại và mang tính “truyền thống” khủng khiếp đến mức nào.
Thứ nhất, xin hỏi ông trung tướng rằng, từ cổ chí kim, ở bất kỳ quốc gia nào (không kể mấy nước XHCN), có chuyện quân hàm, huy chương, được đeo một cách tùy tiện để diễu qua diễu lại trước mắt hàng triệu con người như thế hay không? Ở đây, công khai trước mắt toàn dân tộc mà lại ủ mầm dối trá thì người dân biết tin vào ai? Không lẽ, dối trá, tùy tiện lại trở thành quy địnhcủa ta? Làm sao để có quân lệnh như sơn, làm sao việc tôi hay ai đó đeo quân hàm thì bị bắt ngay lập tức mà trong diễu binh lại coi là bình thường?
Những tấm huy chương đó do một cô gái trẻ đeo, chẳng lẽ cũng lại là quy định? Nếu đúng thế thì đó là sự sỉ nhục đối với những người vào sinh ra tử để có được chúng? Xét về tuổi, sinh năm 1993, đeo được quân hàm thì chỉ có thể tốt nghiệp trung cấp y-dược; tức là… y tá hay hộ lý, dược tá vì, chưa thể tốt nghiệp đại học y – dược 6-7 năm. Sự kệch cỡm và trơ tráo là không thể chối cãi. Có lẽ, đây là cách tốt nhất để vả vào mặt hàng loạt sĩ quan cấp tá khác, có phải vậy không?
Thứ hai, báo chí cho biết có 70% trong đội ngũ nữ “quân y” đã có gia đình; vậy, căn cứ vào đâu để đề nghị cấp bằng khen cho một cô gái còn son trẻ? “Động tác” chuẩn, đẹp, tập luyện cả đêm ngày…; chỉ là sự tư biện trắng trợn. Bốn tháng trời tập có mỗi đi đều, vung tay cho đúng thỉ chỉ có ai đó thiểu năng mới không làm được. Còn tập đêm, tập ngày chỉ là do kém mà thôi. Tại sao không đặt ngược câu hỏi rằng 70% của 200 người , tức là trên dưới cả trăm phụ nữ có con mọn không cần tập như thế vẫn đi đúng, đẹp chẳng kém gì? Nói rằng cô thiếu úy – trung tá đẹp hơn về vòng 1 hay gương mặt thì còn khả dĩ, chứ cho rằng đẹp hơn trong một khối 200 người thì quả là sự phỉ báng tư duy: Đẹp hơn có nghĩa là khối đó có hàng trăm người không đẹp bằng – tức là đi đều sai, chào không đúng, cũng đồng nghĩa là khối nữ quân y diễu binh thất bại. Nếu quả là vậy thì “khối trưởng” có gì đáng tặng bằng khen? Một đất nước mà cái gì cũng GIẢ, từ cấp bậc đến huân chương, danh hiệu anh hùng, đẹp, chuẩn…, là phải hiểu sao đây?
Thứ ba, riêng chuyện bố của cô thiếu úy – bà trung tá, là sĩ quan (cao cấp – vì ít khả năng có chuyện con dám đeo quân hàm cao hơn bố, trong khi quy định, thượng tá là cán bộ cao cấp) ở Tổng cục Hậu cần, đủ để biết cái “thị trường” sao – vạch là hình như có vẻ đúng? Biết bao nhiêu phụ nữ (trong số 140 người) trong khối quân y vừa là con dân đen, vừa nuôi con nhỏ xứng đáng hơn mà không được khen? Thì ra, khen hay chê không phải do tài năng, phẩm hạnh mà có phải là CCCC hay không mà thôi. Phải chăng chính ông trung tướng đang ngầm khẳng định cho cái ‘chân lý’ không có ai chịu nổi là vì mục tiêu thống nhất, duy nhất, các vị muốn làm gì thì làm, diễn ra sao thì diễn?
Thứ tư: tôi được biết các tàu bệnh viện, xe cứu thương trên thế giới đều in dấu chữ thập đỏ trên nóc, 4 phía để đối phương không bắn nhầm (quy định quốc tế, xem ảnh chụp tàu bệnh viện Mỹ vừa đến Đà Nẵng). Thế, tại sao bác sĩ, y tá quân đội ta, cô nào cũng cầm AK (trừ chỉ huy là súng ngắn), mặt đằng đằng sát khí? Họ ra trận để cứu người hay bắn người? Nếu họ bắn rồi bị bắn chết thì lấy ai cứu thương binh; hoặc giả, để thương binh… chết luôn?
Trên đây là 3 câu hỏi xin ông trung tướng trả lời. Nếu tôi sai (cầu mong là thế – vì, tôi sai thì đất nước được nhờ), là do kiến thức hạn hẹp, không hiểu hết cái ý thâm, nghĩ ngắn rõ ràng như của các ông. Tuy nhiên, bài này rất tình cờ được viết trong ngày kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh từ giã cõi đời (suốt mấy chục năm trời, thế hệ chúng tôi thắp hương vào ngày… 3.9!), nên có liên tưởng về “truyền thống” dối trá đắng cay. Xin kể ông nghe.
Thuở đó, tôi cũng như nhiều học sinh lớp 7, lớp 8 khác, đã khóc Bác rất chân thành – khóc dàn dụa đến hết nước mắt theo đúng nghĩa đen của từ này. Sau đó, chúng tôi lùng, tìm để học thuộc nhiều bài thơ viết về nỗi đau “tả” cái đau đớn thật sự của hàng triệu con người. Tất nhiên, cũng có bài thơ không hay (thậm chí là phản động) như bài Bác ơi của Tố Hữu. Tố Hữu kể rằng ngày Bác mất, ổng đang bỏ đi chơi đâu đó: Chiều nay con chạy về thăm Bác. Rồi, ổng miêu tả ổng đang lần mò, rình rập nhà bác; không thèm thắp cho người chết một đốm nến tàn: Con lại lần theo lối sỏi quen… Phòng lạnh, rèm buông, tắt ánh đèn…
Tạm không bàn đến những câu thơ dở mà hãy nói đến những câu thơ hay, trong đó có những câu này (tôi quên tên tác giả, nhờ bạn đọc tìm dùm):
Hôm nay, tháng Chín, ngày ba
Bác mất
Từ đó
Những bình minh khổ đau
Những hoàng hôn nước mắt
Lên đường cùng chúng ta…
Lại xin không bàn về cái tài tiên tri của nhà thơ; quả là từ khi đó đến giờ, có không ít khổ đau và nước mắt đã “lên đường”; mà chỉ xin nhấn mạnh rằng, mấy chục năm sau, tôi nghe đính chính rằng thực ra Bác mất ngày 2.9 chứ không phải ngày 3. Thật là đau đớn cho ông nhà thơ nọ vì nếu là ngày 2 thì không thể vần với chữ ta ở câu sau. Thành thử đành phải vất vào sọt rác cái chữ “hay”.
Rồi, tôi còn được biết rằng, Bác viết trong Di chúc là cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa; nhưng Đảng ta đã quyết định xóa bỏ “20 năm”(!)
Tất cả đều nhằm mục đích… thống nhất?
Đến đây thì hẳn là ông trung tướng đã buộc phải đồng ý với tôi rằng, khi người ta có thể sửa cả di chúc, tức là, hoàn toàn có thể dối lừa mọi chuyện?
Bước khởi đầu của dối trá (tạm tính là khởi đầu) tai họa đó, cứ nghĩ là do… chiến tranh, không làm rối loạn lòng dân, nên nghe đôi khi, cũng xuôi xuôi. Bây giờ, tra trốc, mốc trọ rồi tôi lại còn nghe thêm lý ‘trấu’ là do thống nhất, từ ông, thì quả là hết thuốc chữa.
Các ông cứ nghĩ dối trá ‘cho vui’, dân ngu khu đen chẳng biết, chẳng dám nói gì thì quả đúng là khủng khiếp…
Viết bài này, mong các ông đọc và bớt dối trá đi cho người dân đỡ khổ, đỡ đau. Đừng đưa “quy định” ra để lấp liếm: Tôi từng biết có người cấp bậc đại úy làm trưởng phòng CSGT trong khi cấp trung tá là phó phòng (nghe đâu bây giờ sắp thay đổi).
Xin lưu ý các ông là lần diễu binh sau (kỷ niệm 80 năm, nếu có) đừng cho bất kỳ cô bé mặt búng ra sữa nào đeo lon trung tá, bởi như thế là làm tái phát vết thương chiến tranh của hàng triệu cựu chiến binh đang buộc phải lặng im dù bị sỉ vả đắng cay!…
Huế, 3.9.2015

ĐẶNG HUY VĂN * BẢY MƯƠI NĂM NGHĨ PHẬN MÌNH

NGƯỜI GỐC HÀ NỘI NGHĨ GÌ SAU 70 NĂM SỐNG VỚI CỘNG SẢN 

BẢY MƯƠI NĂM NGHĨ PHẬN MÌNH

(ông Nguyễn Hoàng Khanh, một thời là thầy giáo của TBT Nguyễn Phú Trọng)

Đặng Huy Văn


29-08-2015


Đặng Huy Văn Giới Thiệu: Tôi có một người thầy giáo cũ hồi còn học tại Khoa Toán trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội cuối những năm 60 của Thế Kỷ trước. Thầy giáo của tôi tên là Nguyễn Hoàng Khanh đã dạy Đại Học Tổng Hợp từ ngày anh chàng bần cố nông Nguyễn Phú Trọng mới lơ ngơ bước vào trường. Gia đình của thầy giáo tôi đã bị CS quy là Tư Sản nên những năm 1958-1961 đã bị chính quyền Hà Nội tịch thu nhà cửa, bắt đi cải tạo.


Thầy giáo của tôi ngày đó đang là sinh viên cũng bị chúng quy kết thuộc nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” vì đã ủng hộ Trương Tửu, Trần Dần, Phùng Quán, Văn Cao…Vì vậy mà chúng đã bạc đãi thầy tôi suốt cả cuộc đời nhưng may do thầy chuyên môn giỏi nên chúng vẫn cho thầy đi dạy. Đến bây giờ thầy tôi đã ngoài 80 tuổi, dù đã về hưu hơn 20 năm mà vẫn phải trăn trở ngày ngày vì cuộc mưu sinh để nuôi vợ nuôi con.


Sau đây, tôi xin trân trọng gửi tới quý vị độc giả những dòng tâm sự của thầy giáo Nguyễn Hoàng Khanh về cái thời cuộc nhiễu nhương đang đày ải biết bao nhiêu thế hệ người Việt Nam từ ngày “Cách Mạng Mùa Thu” đến nay.


70 NĂM NGHĨ PHẬN MÌNH
(Thơ tâm sự tặng Huy Văn)


Bẩy mươi năm chỉ “vâng lời”
Chết oan vẫn phải tươi cười “nhờ ơn….”
Đen ngòm phải nói trắng trơn,
Đói dài vẫn nói “thiên đường trần gian”


Viết không phạm “húy”các quan.
Nói thì phải đúng với đường lối chung
Khi cần, đấu cả cha, ông
Càng to mồm chửi, càng thông lập trường!


Đấu tranh giai cấp – tai ương
Ngoài đời tan nát, trong trường ghét nhau
Hôm qua “đồng chí, đồng bào “
Hôm nay hai tuyến chiến hào đấu tranh


Bắn giết cả vạn dân lành,
Vài câu nhận lỗi – tan tành nỗi oan
Hứng lên, bắt góp ruộng vườn,
Cửa hàng, nhà xưởng – triệt đường tư nhân

Cơm, mì, kem, phở quốc doanh
Gội đầu, cắt tóc …cũng thành nhân viên
“Xin -Cho” gieo thói cửa quyền
Dân thành chuột bạch để đem thực hành.


Càng thi thố, càng tan tành
Đói nghèo vẫn tán “tài tình, tinh khôn”
Quay về kinh tế thị trường,
Tự khoe “cởi trói”, mở đường dân sinh

Lúc này, bố nắm quyền hành
Con giòng, cháu giống tung hoành vét vơ
Nơi nào ngon mắt, dễ “phơ”
Khoanh vùng quy hoạch chung cư cao tầng

Xót thay giải phóng mặt bằng
Cả nhà bị tống ra đường lắt lay!
Thương sao, ruộng mật, bờ xôi
Cây ủi bật rễ, lúa vùi bùn đen

Đành làm thằng ở, con sen
Chân trời, góc bể phận hèn từ đây….
Tư bản đỏ, cả một bầy
Con ông, cháu cụ, đêm ngày hại dân


Đất này đổ máu bao năm
Mong nước độc lập, dân lành tự do
Pháp, Mỹ rút, giặc Tầu vô
Đoạn đường Bắc thuộc đang chờ đó đây !


Đêm nằm càng nghĩ, càng cay
Đem thân phó mặc cho ai xoay vần
“Bắt cởi trần, phải cởi trần
“Cho may-ô mới được phần may-ô….”


Bẩy mươi năm sống xô bồ
Cuối đời mới thấy bơ vơ thân mình!
Hà Nội, Mùa hè đêm trở mưa
Nhà giáo Nguyễn Hoàng Khanh

(Một thời là thầy giáo của TBT Nguyễn Phú Trọng)


__._,_.___

HỒI NHỎ...

 
HỒI NHỎ...
BẢN I
Hồi nhỏ tưởng học lịch sử để biết về tổ tiên nòi giống.
Lớn lên mới biết là láu cá nhồi sọ.
Hồi nhỏ tưởng ráng học thành tài để phục vụ đất nước.
Lớn lên mới biết thành tài chỉ được phục vụ nước khác.
Hồi nhỏ tưởng công an bắt cướp.
Lớn lên mới biết công an ăn cướp.
Hồi nhỏ tưởng cờ đỏ sao vàng là cờ Tổ Quốc.
Lớn lên mới biết đó là cờ Phúc Kiến Trung Quốc.
Hồi nhỏ tưởng Mỹ-Nguỵ là ác.
Lớn lên mới biết Cộng Sản mới ác.
Hồi nhỏ tưởng bán vàng giàu nhất.
Lớn lên mới biết bán nước giàu hơn.
Hồi nhỏ tưởng đánh trận lập công lớn mới được lên tướng.
Lớn lên mới biết lòn cúi hèn hạ với giặc cũng lên tướng.
Hồi nhỏ tưởng chống Tổ Quốc là yêu nước.
Lớn lên mới biết chống Tổ Quốc là phản quốc.
Hồi nhỏ tưởng Đảng giải phóng miền Nam đói rách.
Lớn lên mới biết là cướp miền Nam giàu có.
Hồi nhỏ tưởng bác Hồ là người Việt Nam.
Lớn lên mới biết là người Trung Quốc.
Hồi nhỏ tưởng cán bộ là đảng lo cho dân ấm no.
Lớn lên mới biết dân là đầy tớ lo cho cán bộ ấm no.
Hồi nhỏ tưởng yêu nước là yêu Tổ Quốc.
Lớn lên mới biết yêu nước là yêu Đảng.
Hồi nhỏ tưởng những người lưu vong là Việt gian.
Lớn lên mới biết đó là khúc ruột ngàn dăm.
Hồi nhỏ tưởng hi sinh xương máu đánh Mỹ là đánh cho dân tộc.
Lớn lên mới biết đánh cho Liên Sô và Trung Quốc.
Hồi nhỏ tưởng Lê Văn Tám, Tô Vĩnh Diện, Hồ Thị Kỷ là anh hùng.
Lớn lên mới biết đó là sản phẩm tuyên truyền bố láo.
Hồi nhỏ tưởng thác Bản Giốc, Ải Nam Quan,
Đảo Gạc Ma là của Việt Nam.
Lớn lên mới biết của Trung Quốc.
Hồi nhỏ tưởng muốn thành tiên thành thánh
phải tu thân tích đức.
Lớn lên mới biết gian manh xảo trá độc ác giết vài triệu người mới được thành tiên thành thánh.
Hồi nhỏ tưởng tiền cứu trợ thiên tai dành cho dân.
Lớn lên mới biết dành cho cán bộ.
Hồi nhỏ tưởng cờ vàng của bọn ngụy .
Lớn lên mới biết cờ vàng có từ thời Vua Thành Thái.
Hồi nhỏ tưởng Hồ Chí Minh, "Cách Mạng" là đạo đức.
Lớn lên mới biết họ Hồ dâm đãng trụy lạc âm thầm.
Hồi nhỏ tưởng lính Quốc Gia là Ngụỵ.
Lớn lên mới biết Ngụy chính là Đảng Cộng Sản
Việt Nam."


Hồi nhỏ cứ tưởng… lớn lên mới biết 

BẢN II 
Học Sinh Miền Bắc & Đảng Còm Sỹ Lề Dân - 

Hồi nhỏ cứ tưởng học lịch sử là để biết về tổ tiên nòi giống,
Lớn lên mới biết cộng sản láu cá nhồi sọ;
- Hồi nhỏ cứ tưởng ráng học thành tài để phục vụ đất nước,
Lớn lên mới biết thành tài chỉ được phục vụ Nga Tàu và nước khác;
- Hồi nhỏ cứ tưởng công an bắt cướp, giúp dân,  
Lớn lên mới biết công an ăn cướp, hại dân; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng công an là bạn dân,\
 Lớn lên mới biết công an là khuyển ưng của đảng; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng Cờ đỏ sao vàng là Cờ tổ quốc,  
Lớn lên mới biết đó là Cờ Phúc Kiến bên Tàu; 
 - Hồi nhỏ cứ tưởng Mỹ-Ngụy là ác,
 Lớn lên mới biết cộng sản mới ác; 
 - Hồi nhỏ cứ tưởng bán vàng giàu nhất,  
Lớn lên mới biết bán nước giàu hơn;
  - Hồi nhỏ cứ tưởng đánh trận, lập công lớn mới được lên tướng,
 Lớn lên mới biết lòn cúi, hèn với giặc ác với dân cũng lên tướng; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng chống Tàu là yêu nước (1),
 Lớn lên mới biết chống Tàu là phản quốc; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng đảng giải phóng miền Nam đói rách,  
Lớn lên mới biết là đảng cướp miền Nam giàu có; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng bác Hồ là người Việt Nam, 
Lớn lên mới biết bác là người Tàu Hẹ;
- Hồi nhỏ cứ tưởng bác Hồ ‘đi xa’ nhằm ngày 03 tháng 9, \
Lớn lên mới biết bác chết trùng ngày Quốc khánh, tháng 9 mồng 2;
  - Hồi nhỏ cứ tưởng cán bộ là đầy tớ lo cho dân no ấm, 
Lớn lên mới biết dân là đầy tớ lo cho cán bộ ấm no; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng yêu nước là yêu tổ quốc,
Lớn lên mới biết yêu nước là phải yêu đảng; \
- Hồi nhỏ cứ tưởng những đồng bào Boat People là Việt gian,  
Lớn lên mới biết đó là khúc ruột ngàn dặm; 
 - Hồi nhỏ cứ tưởng hy sinh xương máu đánh Mỹ là đánh cho dân tộc,  
Lớn lên mới biết là đánh cho Liên Sô, đánh cho Tàu cộng; -
 Hồi nhỏ cứ tưởng Lê Văn Tám, Tô Vĩnh Diện, Hồ Thị Kỷ là anh hùng, 
Lớn lên mới biết đó là sản phẩm tuyên truyền bố láo; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng Trần Dân Tiên và T. Lan là hai nhà văn nào đó viết về bác Hồ,  
Lớn lên mới biết cả hai đều là bí danh của bác Hồ tự ca tụng mình; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng CB là Carte Bleue (thẻ tín dụng bên Pháp), 
Lớn lên mới biết CB cũng là bút danh Của Bác dùng khi viết báo trên tờ Nhân Dân, trong đó có bài Địa chủ ác ghê (2); 
- Hồi nhỏ cứ tưởng đảng viên cán bộ hẳn phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư như lời bác Hồ trên giấy,  
Lớn lên mới biết trong thực tế, đảng viên cán bộ cấp càng cao càng trây lười hoang phí, càng trí trá tham tàn, càng thiên vị bè lũ; 
 - Hồi nhỏ cứ tưởng trí thức xhcn là tầng lớp tinh hoa chính trực, uy vũ bất năng khuất, 
Lớn lên mới biết chỉ là học giả, hương nguyện; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng CH xhcn VN là Độc lập, Tự Do, Hạnh Phúc,
Lớn lên mới biết là trừ (-) độc lập, trừ (-) tự do, trừ (-) hạnh phúc;
- Hồi nhỏ cứ tưởng công lý xhcn là bà cô thiết diện vô tư,
 Lớn lên mới biết Công Lý là một ông chú diễn viên hài; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng bác Hồ vì nước vì dân nên trọn đời không vợ, không con, 
Lớn lên mới biết là đếch phải vậy; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng Hoàng Sa, Trường Sa, thác Bản Giốc, Ải Nam Quan là của Việt Nam,  
Lớn lên mới biết bác và đảng đã ‘cầm cố’ cho Tàu cộng từ lâu;
- Hồi nhỏ cứ tưởng muốn thành tiên thành thánh thì phải tu thân tích đức,
Lớn lên mới biết gian manh xảo trá, độc ác nướng vài triệu người như bác Hồ, bác Giáp cũng được thành thánh thành tiên; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng tiền cứu trợ thiên tai là dành cho dân,
Lớn lên mới biết là để cứu trợ cán bộ;
- Hồi nhỏ cứ tưởng Cờ vàng là Cờ của bọn “Ngụy”,
Lớn lên mới biết Cờ vàng đã có từ thời Vua Thành Thái;
- Hồi nhỏ cứ tưởng đảng tàn sát địa chủ trong Cải Cách Ruộng Đất là để chia ruộng, chia đất cho dân nghèo,  
Lớn lên mới biết đó là để đảng thu gom về cho riêng đảng; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đất nước,  
Lớn lên mới biết đảng lãnh đạo nhà nước, quản lý nhân dân, làm chủ đất nước;
  - Hồi nhỏ cứ tưởng Quốc hội là vì dân,
 Lớn lên mới biết tất cả chỉ là Bonzaï của đảng; 
- Hồi nhỏ cứ tưởng Hiến Pháp là văn kiện pháp lý cao nhất của tổ quốc,
Lớn lên mới biết Cương lĩnh đảng còn cao hơn nhiều;
- Hồi nhỏ cứ tưởng mình đang sống ở ngưỡng thiên đường xhcn,
Lớn lên mới biết “còn lâu dài lắm, đến hết thế kỷ (21) này không biết đã có chxn hoàn thiện hay chưa”.

SINH HOẠT VIỆN VIỆT HỌC

 
WESTMINSTER (VB) -- Giáo sư Đặng Phùng Quân từ Texas sẽ tới Quận Cam nói chuyện vào cuôi tuần này về những vấn đề văn chương, khi ông giới-thiệu tác-phẩm Đường Vào Văn Chương Toàn tập I và II tại Viện Việt Học.

Theo nhà văn Lê Lạc Giao, ông đã từng học lớp Triết học Tây phương do GS Đặng Phùng Quân giảng dạy những năm trước 1975 tại Đại hoc Văn Khoa Sài Gòn, rằng ký ức của các sinh viên về GS Quân là cặp mắt kính dày cộm và những ngôn ngữ mang theo sương mù triết lý Paris -- GS Đặng Phùng Quân trước 1975 đã từng in các tác phẩm: Lexistence dautrui et la fidélité dans loeuvre de Gabriel Marcel; Hiện hữu tha nhân với G. Marcel; Triết học và Khoa học; Triết học Aristote; Chân dung triết gia; Triết học và Văn chương.

GS Đặng Phùng Quân sẽ nói gì về Đường Vào Văn Chương? Bản thân Giáo sư quân cũng từng sáng tác văn học: Trong những năm 1957-1963, Đặng Phùng Quân viết văn, làm thơ với bút hiệu Trường Dzi trên những tạp chí Sáng Tạo, Thế Hệ, Tiểu thuyết tuần san...

Mới hơn mười năm trưóc, GS Đặng Phùng Quân trả lời phỏng vấn của nhà văn Hô Trường An trên Talawas.

 
blank

 Bài viết tựa đề “Đặng Phùng Quân: Viết trước hết đem lại sự bất ổn cho đời sống” ngày 13.12.2004 trên Talawas ghi lời họ Đặng:

“Viết cũng là một hành động để biến đổi thế giới. Tôi đã viết như thế từ lâu lắm. Viết trước hết đem lại sự bất ổn cho đời sống. Vận động của văn chương là cách mạng. Cho nên tôi đã xác định ở trong Tự truyện, như tất cả những cuộc đổi mới, tiểu thuyết phá thể hủy tạo mọi quy ước về ngôn ngữ, quy phạm, tu từ, phong cách, tư duy, nhân vật, thế giới, khoa học... nhưng trước hết vẫn trên con đường tìm kiếm.

Hành trạng của viết như tôi đã nói vẫn trên con đường tìm kiếm. Trong Triết học và Văn chương xuất bản năm 1974, tôi viết đâu đó là “điều đau đớn không phải là viết ra tác phẩm thất bại, nhưng là không được viết ra”. Đối với người cầm bút, không có điều bí mật nào không được viết ra, không có điều cấm kỵ nào không được viết ra. Tôi vẫn tiếp tục suy nghĩ những vấn đề của triết học, tôi đang viết Cơ sở tư tưởng thời quá độ, những nan đề phải khai phá nhưng tôi cũng tiếp tục viết những điều cấm kỵ của thực tại, những phá thể tiểu thuyết...”(ngưng trích)

Đó là năm 2014, và hơm mười năm sau, bây giờ là năm 2015, khi GS Đặng Phùng Quân thuyết trình ở Viện Việt Học, ông sẽ nói những gì?

Viện Việt Học gửi lời mời tham dự buổi giới-thiệu tác-phẩm Đường Vào Văn Chương Toàn tập I và II.

Tác giả: Giáo-sư Đặng Phùng Quân. Chủ-nhật 17 tháng Năm năm 2015, từ 2 giờ đến 5 giờ chiều

Tại phòng hội Viện Việt-Học: 15355 Brookhurst St., Suite 222, Westminster, CA 92683.

Ngoài phần nói chuyện của GS Đặng Phùng Quân, cũng sẽ có phần trình bày của GS Đào Trung Đạo và GS Nguyên Văn Sâm.



PHAN TẤN HẢI


Giáo Sư Đặng Phùng Quân Ra Mắt Sách Ở Quận Cam:
3 Giáo Sư Nói Về
Thông Diễn Học và Tiểu Thuyết

tuờng trình


Buổi giới thiệu hai tác phẩm mới của Giáo sư Đặng Phùng Quân ngày 17 tháng 5-2015 tại Viện Việt Học không thực sự là ra mắt sách. Nó phức tạp hơn những buổi giới thiệu sách trước đây. Cả ba diễn giả đều là các vị thầy đại học Miền Nam trước 1975, và mỗi người nói một đề tài riêng, tuy có chung lĩnh vực về những tàng ẩn triết lý trong văn chương. Ngôn ngữ đôi khi bí hiểm, trong lĩnh vực hiếm được đọc tới, cũng như khi nói về ẩn nghĩa của các tiểu thuyết, phim ảnh, và phê bình văn học.


Một điểm đặc biệt: nhiều cựu sinh viên Đại học Văn Khoa, nơi GS Đặng Phùng Quân và GS Nguyễn Văn Sâm giảng dạy trước 1975, dịp này đã tham dự, lắng nghe các thầy cũ nói chuyện, và cũng để hội ngộ – trong đó, có người từ San Diego lái xe lên Viện Việt Học ở Westminster.

Phần thứ 4 của buổi gặp gỡ thật tuyệt vời: nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt độc tấu Tây Ban Cầm, những nốt nhạc của anh làm cho buổi chiều thêm lắng đọng.
Hai tác phẩm được giới thiệu là: Đường Vào Văn Chương, Tập I và tập II.
GS Đặng Phùng Quân nói chuyện về đề tài Ứng dụng Thông Diễn Học vào Giải thích Văn chương, cũng có thể hiểu là Phê bình Lý trí Văn chương.
GS Nguyễn Văn Sâm nói chuyện về đề tài Văn Chương Và Triết Lý.
GS Đào Trung Đạo nói về tiểu thuyết gia Jean Echenoz tác giả của tiểu thuyết “Au Piano.”
Nghĩa là, ba vị giáo sư có ba bài thuyết trình với ba hướng riêng. Trong khi đó, MC Bùi Đường và MC Hoàng Anh đã điều hợp chương trình một cách xuất sắc, linh động.
Người đầu tiên nói chuyện là GS Nguyễn Văn Sâm, một kho tàng văn học chữ Nôm biết đi, cũng là một ngưới viết truyện ngắn cực kỳ xuất sắc.
GS Nguyễn Văn Sâm nói rằng chữ triết lý đúng hơn là dùng chữ triết học, vì khi buông tập truyện của một nhà văn xuống, những gì độc giả thấy được sẽ là triết lý, một vài tư tưởng về cuộc đời mà tác giả gởi gấm xa gần. Thí dụ, cuốn phim của Mỹ về một người sống 200 năm, anh là một robot vì không thể chết, thế nhưng khi anh thấy một cô gái, anh yêu cô gái và muốn được công nhận như là người, chứ không phải robot – cái giá là, người tất phải chết; và vì đời của một người máy không đáng sống, và anh khát khao yêu thương để chấp nhận chết.
GS Nguyễn Văn Sâm cũng nói về tiểu thuyết Ngư Ông Và Biển Cả của Hemingway với lão ngư ông vật lộn với con cá khổng lồ giữa đại dương sóng gió, để đưa cá vào bờ. Công trình nào của con người cũng tốn rất nhiều công sức nhưng kết quả là bất toàn, và không phải ai cũng nhận thấy công trình đó để xưng tụng, và khi người trên bờ thấy con cá khổng lồ chỉ còn là bộ xương, họ đã bỏ đi hết.
Hay như Truyện Kiều của Nguyễn Du, như khúc ngâm Cung Oán của Ôn Như Hầu, như Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn… là thân phận lưu lạc, hay bẽ bàng của người phụ nữ trong thời bình cũng như thời chiến. GS Nguyễn Văn Sâm cũng dẫn ra một truyện ngắn của John Updike về kỷ niệm Giáng sinh của một cậu bé, khi cha làm chức sắc một hãng phim, cậu bé nhận được vô số đồ chơi, chất đầy nhà, kể cả những thứ cậu bé không thích; khi cha không còn giữ chức lớn, cậu bé không được ai tặng quà gì nữa. Triết lý ở truyện này là con người ưa phò thịnh, chẳng ai phò suy. GS Nguyễn Văn Sâm cũng nói rằng có những truyện không có triết lý gì, nếu văn chương kém thì kể như quăng đi.
GS Nguyễn Văn Sâm nói, theo kinh nghiệm đọc sách của Giáo sư, truyện không cần nhiều sự kiện, suy nghĩ của nhân vật là chánh, đọc xong ta thấy bàng hoàng, thấy nao nao, tự nhiên suy nghĩ về những tư tưởng ẩn tàng trong câu chuyện. GS Nguyễn Văn Sâm nói: “Nói cách khác, độc giả trước và sau khi đọc quyển sách là hai người khác nhau; họ đã có thêm gì đó sinh ra từ tác phẩm.”


GS Nguyễn Văn Sâm cũng dẫn ra bài thơ Thu Chí của Nguyễn Du:

Hữu hình đồ dịch dịch / Vô bịnh cố câu câu/ Hồi thủ Lam Giang phố/ Nhàn tâm tạ bạch âu.

Dịch: Mang hình hài là mang nỗi khổ, không bịnh mà cứ khom lưng. Nhìn quê nhà xa thẳm thẹn với cái lòng nhàn của chim bạch âu.
Triết lý nơi đây là: Làm quan như là nỗi nhục, trong khi đó thì mất đi sự nhàn, chẳng bằng con chim trời tự do bay lượn.
GS Nguyễn Văn Sâm nói nhà văn phối hợp giữa hai thứ triết lý và văn chương sẽ dễ đi vào đường nghiên cứu văn chương, và “bạn tôi, nhà văn Đặng Phùng Quân thiên về triết lý. Ông viết gì? Sự thao thức băn khoăn về cuộc đời của những người sống trong thành thị thời chiến tranh, thấy cuộc sống mong manh nhưng không chán bỏ đời, vẫn đi trong lòng đời dầu là hờ hững. Sự bơ vơ của con người trí thức trước cuộc sống mà mình cho là vô nghĩa. Suy nghĩ của GS Quân đáng trân trọng.”
MC Bùi Đường vẫn trong cách giới thiệu rất bác học, đã đọc câu thơ Nguyễn Du khi nói về Từ Hải, “áo xiêm về với triều đình…” và hỏi rằng văn có nên tải đạo không… Dĩ nhiên, Bùi Đường độc thoại, vì không thấy tác giả Nguyễn Du trả lời MC Bùi Đường… Chỉ thấy GS Đặng Phùng Quân bắt đầu nói về Ứng Dụng Thông diễn học vào Nghiên cứu Văn chương.
Mở đầu, GS Đặng Phùng Quân nói trước kia vẫn thường lấy cớ ra mắt sách để lên San Jose thăm bạn cũ, nơi có các nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Phan Anh – những người một thời cùng sinh hoạt văn học trước 1975.
Chuyện Thông Diễn Học nghe phức tạp, theo lời GS Đặng Phùng Quân, nhưng chính Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cũng từng nói về đề tài “Thông Diễn Học Ứng Dụng Vào Nghiên Cứu Phật Giáo Tây Tạng” (Ghi chú: Thông Diễn Học, tức Hermeneutics, là các lý thuyết diễn dịch văn bản.) GS Đặng Phùng Quân nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã sử dụng Thông Diễn Học để nói về các kinh văn bản gốc, và các lựa chọn diễn dịch trong văn bản thuộc Trung Quán Luận hay Duy Thức Học. GS Đặng Phùng Quân nói chúng ta đối diện Truyện Kiều của Nguyễn Dục, và sẽ có lưạ chọn: Đọc Truyện Kiều như Truyện Kiều hay như Truyện Kiều đã được lý giải?
Câu hỏi nữa: độc giả Truyện Kiều ở thế hệ Nguyễn Du có khác độc giả Truyện Kiều bây giờ?
Đặc biệt, GS Đặng Phùng Quân nói về “một thảm họa thông diễn” trong một tác phẩm Anh ngữ gồm nhiều tác giả xuất bản năm 1981, chủ đề về văn chương và xã hội Đông Nam Á trong đó, người viết trong tuyển tập này là GS Nguyễn Đình Hòa, bác sĩ Nguyễn Trần Huân. GS Nguyễn Đình Hòa viết về văn học Hán-Nôm. Vấn đề là, theo GS Quân, trong khi Nguyễn Trần Huân (một bác sĩ ở Pháp) viết về văn học Việt Nam 1945-1973, trong đó, ghi sách tham khảo tới 39 cuốn sách nhưng lại chỉ có 4 cuốn của các tác giả Miền Nam, còn 35 cuốn khia là của các tác giả Miền Bắc trong đó có cuốn in năm 1977 về “Văn Học Miền Nam Dưới Chế Độ Mỹ Ngụy” của các tác giả Hà Nội. Thảm họa Thông diễn ở đây chính là: viết về văn học VN 1945-1973 nhưng lại trích dẫn một cuốn sách 1977 đầy ngôn ngữ đấu tố. Xin nhớ, lúc Nguyễn Trân Huân viết bài này là năm 1981, nghĩa là có nhiều thông tin, có nhiều tác phẩm hai miền dễ tìm đọc. Nhưng Nguyễn Trần Huân trong cuốn này đã giành nhiều trang (3 hay 4 trang) cho thơ Tố Hữu dịch sang Anh văn, Pháp văn, và gọi Tố Hữu là “nhà thơ vĩ đaị nhất của thi ca VN,” trong khi ông lại chụp mũ các nhà văn, nhà thơ Nhân Văn Giai Phẩm là “tay sai đế quốc…”
Văn học Miền Nam có gì? GS Đặng Phùng Quân hỏi, và nói trong một tác phẩm với những bài viết của nhiều tác giả quốc tế mà Nguyễn Trần Huân viết về văn học VN 1945-1973 nhưng lại không hề nhắc tới, thí dụ, một nhà văn nhà thơ nào trong Nhóm Sáng Tạo! Nguyễn Trần Huân chỉ đôi lần trích dẫn thơ Vũ Hoàng Chương.

GS Đặng Phùng Quân nêu câu hỏi, lúc đó là năm 1981, có phải Nguyễn Trần Huân là xu thời, hay là văn công?
GS Đặng Phùng Quân cũng nêu một số tác phẩm ảnh hưởng tới văn học Miền Nam trước 1975, như thuyết duy nhân, thuyết hiện sinh. GS Đặng Phùng Quân nói sự xuất hiện của Nhóm Sáng Tạo ở Miền Nam là một bước đi xa.
GS Quân cũng dẫn ra tiểu thuyết Tường (Le mur) của Jean-Paul Sartre, và nêu câu hỏi, có thể có trường hợp độc giả sẽ lãnh hội nhiều hơn tác giả? Trong quyển Situations I Sartre phê phán François Mauriac viết tiểu thuyết với vai trò chúa tể khi nhét vào nhân vật tiểu thuyết những lời lẽ, ý nghĩ của mình. Nhưng khi viết Le Mur chính Sartre lại rơi vào lỗi lầm này.
Phần thứ 3 của chương trình là tiếng đàn của nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt… Những âm thanh từ đàn guitar rải vào một buổi chiều sâu lắng, nơi các nhà nghiên cứu văn học và triết lý đang trầm tư, lắng nghe… Phải chăng, những nốt nhạc của Nguyễn Đức Đạt cũng cần khả năng thông diễn từ người tri âm?
Nguyễn Đức Đạt đàn bản “Đời Phải Có Em” do anh sáng tác, tiếp theo, đàn ca khúc “Đoàn Người Lữ Thứ” của Lam Phương. Và rồi đàn ca bài thơ “Mây Vô Xứ” của Đào Trung Đạo do Nguyễn Đức Đạt phổ nhạc.
Một đề tài tiếp theo đã được GS Đào Trung Đạo trình bày, tập trung vào thế hệ nhà văn sau thế hệ Tiểu Thuyết Mới, trong đó, cụ thể là tập trung vào quyển “Au piano” của nhà văn Pháp Jean Echenoz vì quyển này tiêu biểu cho kỹ thuật viết tiểu thuyết của Jean Eschenoz nhất trong số 14 đầu sách của nhà văn này. GS Đào Trung Đạo giới thiệu hai tiểu thuyết của Jean Eschenoz ông cầm theo, “Au piano” và “Je m’en Vais.” Tiểu thuyết thứ nhì vừa nêu thắng giảỉ văn học Goncourt Prize năm 1999. GS Đào Trung Đạo nói rằng khi người ta đọc một trang, hai trang truyện của Jean Eschenoz là hầu như không thể buông sách xuống cho tới khi đọc hết.
 GS Đào Trung Đạo nói rằng chủ ý của tác giả không muốn ai tóm lược cốt truyện, mà chỉ muốn độc giả tham dự vào việc đọc cuốn tiểu thuyết. Trong “Au piano,” nhân vật chính tên là Max Delmarc, 50 tuổi, được tác giả mô tả như một nhạc sĩ trình diễn dương cầm nghiện rượu. Max nổi danh, nhưng lại chán việc trình diễn, khi trình diễn cùng dàn nhạc thường đàn mấy nốt đầu trật nhịp, nhưng không ai nhận ra, và sau vài nốt đầu tâm hồn Max bị những dòng nhạc cuốn đi. Max ở trên một căn nhà hai từng lầu ở Paris, tầng dưới là cô tình nhân tên Alice nhưng có khi Max lại nói với người khác Alice là em gái mình. Vấn đề là, độc giả phải đoán xem cô là tình nhân hay em gái của Max. Nhưng Max suốt đời chỉ mê đắm mơ tưởng tới cô bạn học ở Nhạc viện Toulouse là Rose… Trong buổi trình diễn cuối cho một hội từ thiện, đêm khuya Max đi về nhà và bị một bọn nhóc đè ra cướp tiền, khi còn do dự trong việc chống trả liền bị một tên nhóc cứa cổ họng. Câu hỏi nơi đây: Max chết, hay còn sống?

Phần 2 cuốn “Au piano”, khởi đầu bằng chữ “Non.”
Có ai đó đã cứu anh, đưa anh vào một Trung tâm Chỉnh hình, chữa khỏi vết thương. Bệnh viện này y hệt như nơi của những người đã người chết, vì chung quanh anh là các nghệ sĩ đã quá cố. Y tá của anh là Doris Day, phu đẩy xe là Dean Martin…
Câu chuyện càng lúc càng phức tạp, tới Phần 3 Max được cho về đời thường ở Paris, gặp Rose, rồi Rose biến đi..
Độc giả bị lôi cuốn, không hiểu rằng Max sống hay chết, không hiểu rằng cô Rose chết hay sống… Họ lơ lửng giữa đời, và độc giả chỉ có cách đoán.


Độc giả có thể hỏi, rằng phảỉ chăng ranh giới giữa chết và sống rất mực mong manh…

Điều Jean Eschenoz muốn nói qua tiểu thuyết “Au piano” là: Max không chết cũng có nghĩa tiểu thuyết không chết.


Cần ghi nhận, sau buổi giới thiệu sách, là một bữa tiệc hội ngộ giữa quý Giáo sư và một số cựu sinh viên ĐH Văn Khoa. Bữa tiệc, có chai rượu do họa sĩ Nguyễn Tam Dương (cũng cựu SV/VK) mang lên từ San Diego. Có phải rượu là triết lý của cuộc đời, hay là một chất men thông diễn của phê bình văn chương, hay là những nốt đàn piano trật nhịp vọng lại từ một căn gác Paris?


Phan Tấn Hải

5.2015
PHOTO:
H1

Giáo sư Nguyễn Văn Sâm
H2:

Giáo sư Đặng Phùng Quân

H3:

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt

H4:

Giáo sư Đào Trung Đạo

H5:

Khán giả trong hội trường Viện Việt Học


H6:
Hình lưu niệm, từ phải: nhà thơ Lê Trung Khiêm, họa sĩ Nguyễn Hồi Thủ, họa sĩ Nguyễn Tam Dương,
nhà văn Lê Lạc Giao, GS Đặng Phùng Quân, nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt, GS Đào Trung Đạo, Phùng Mạnh Tâm và Phan Tấn Hải.
Bấm vào đây xem tường trình trên Youtube:


No comments:

Post a Comment