Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday 18 October 2016

TRUYỆN TÙ VÀ VƯỢT BIÊN

NGUYỄN ĐÌNH LONG * MỘT CÁI TẾT TRONG TRẠI TÙ BINH CỘNG SẢN

MỘT CÁI TẾT TRONG TRẠI TÙ BINH CỘNG SẢN
 
Lời giới thiệu: Bài này được viết hồi năm 1977, vào thời điểm mà có một số lớn sĩ quan QLVNCH bị đưa vào các trại tù, gọi nôm na, dịu dàng là “trại cải tạo” ở ngoài Bắc, đã được một vài tờ nội san đăng rồi, nay sẵn dịp Tết, tác giả và ĐS PB xin đăng lại.
Tác giả bị động viên Khóa I Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tham gia trận Nà Sản (Bắc Việt), bị bắt làm tù binh từ 1952 đến 1955. Được trả về Nam theo sự can thiệp của UHKSĐC Quốc Tế cùng lúc với 100 sĩ quan quân đội QGVN bị cầm tù thời bấy giờ. Giải ngũ năm 1958 để thi vào trường QGHC, đã phục vụ ở Bộ Nội Vụ, Bộ Ngoại Giao cho đến tháng 4 năm 1975.
Nà Sản là một cái lòng chảo, gần Điện Biên Phủ, nơi tác giả đồn trú khi bị Việt Minh đánh chiếm đêm 30/11/1952 (cho đến ngày 18/7/1955 mới được trả tự do tại Bến Hải, cầu Hiền Lương).
Ban Biên Tập
 
Cảm thông với những nỗi thống khổ về tinh thần lẫn vật chất của hàng chục ngàn sĩ quan QLVNCH đã bị Cộng Sản giam cầm trong các trại “cải tạo” (sic) ở Bắc Việt, tôi xin ghi lại hình ảnh một cái Tết trong trại tù binh tại Thái Nguyên trước ngày ngưng bắn 1954 để đồng bào tị nạn cùng chia sẻ.
Tết Nguyên Đán sắp đến rồi, đồng bào ta đang tị nạn tại các quốc gia trong khối tự do không làm sao quên được các thân nhân, bạn bè nguyên là những chiến sĩ dũng cảm của QLVNCH đang thoi thóp trong các trại cải tạo của Cộng Sản tại quê nhà. Tâm trạng của họ giờ đây cũng như tâm trạng của các sĩ quan và binh sĩ quốc gia bị bắt làm tù binh và giam cầm tại miền Thượng Du Bắc Việt trong những năm 1952, 1953, 1954, và năm 1955. Tôi nhấn mạnh năm 1955 là vì mặc dù Hiệp Định Genève quy định hai bên ngưng bắn ngày 20-7-1954, phải trao trả tù binh trong vòng 2 tháng nhưng Việt Minh còn cầm giữ các sĩ quan Quốc Gia, đến tháng 7-1955 mới tuyên bố giải tán trại tù binh C.100 tại Thái Nguyên.
Để mở đầu, tôi xin chép lại bài thơ được truyền tụng trong hàng ngũ anh em tù binh hồi đó tạm đề tựa là:
 
CẢM TÁC  
Buồn quá đi thôi núi vây quanh,
Suốt ngày trân tráo một màu xanh.
Lưng trời ghép chặt trên rừng rậm,
Thung lũng nằm trơ chói nắng hanh.
 
Đợi chờ* khó chịu quá đi thôi,
Đêm đến ngày đi biết mấy rồi.
Nhìn áng mây mờ trôi lủng lẳng,
Ta nghe trong thịt máu bừng sôi.
 
Chiều nay núi vẫn trơ màu biếc,
Khe vẫn ngân nga một giọng đều.
Rừng vẫn buồn buồn như luyến tiếc,
Trời ơi ấm ức biết bao nhiêu !

* Đợi chờ: Tức chờ ngày được phóng thích mà bọn cán bộ thường nói tới khi đề cập đến “lượng khoan hồng” của Hồ Chủ Tịch, đảng và chính phủ (sic).  
Đây là cái Tết thứ ba mà tôi đang chuẩn bị đón chào theo chỉ thị của Ban Chỉ Huy trại.
Quý vị cứ hình dung một khu nhà tranh vách nứa nằm giữa rừng sâu, không có kẽm gai bao quanh (không phải vì Cộng Sản nhẹ tay đối xử với tù binh, mà vì chúng không có kẽm gai mà rào), bốn bề rào bằng tre nứa đan mắt cáo, bên cạnh là khe suối nước chảy róc rách tối ngày (không phải thơ mộng như trong bản nhạc “Suối Mơ” của Văn Cao mà suối này ai lội qua có thể rụng lông chân vì lòng suối dầm lá han nên nước trở nên độc địa), còn một bên hông là núi đồi trùng điệp, đằng xa là đỉnh Tam Đảo, còn gần đây là muỗi và vắt khủng khiếp (tôi nói khủng khiếp là vì ai có biết con vắt mới thấy cái kinh tởm của nó, mình vừa đặt chân tới bìa rừng là hàng trăm ngàn con vật li ti, nhỏ như cọng nhang, khi nó đói và to bằng mút đũa khi nó hút máu người no nê, giương mình búng đi tìm da thịt mình như con đĩa đói).
Nói tới rừng, tôi cũng có cảm hứng làm một bài thơ:
 
RỪNG VIỆT BẮC  
Rừng Việt Bắc bao la hùng vĩ (1),
Rừng Việt Bắc huyền bí thiêng liêng.
Đây, nơi ẩn thân người chí sĩ,
Đây, nơi nghiêm trị kẻ tù đày.
 
Ta bảo mi là bạn
Nơi căn cứ cách mạng (2)
Nung đúc chí anh hùng
Cờ khởi nghĩa phất tung
Giữa mùa thu lịch sử
 
Ta bảo mi là thù
Nơi rừng núi âm u
Giam cầm người tù tội
Và trong giờ sám hối (sic)
Hàng trăm bịnh giày vò.

1. Việt Bắc là danh từ của Cộng Sản gọi miền Thượng Du (xứ Thái và dân thiểu số) gồm các tỉnh Thái Nguyên, Yên Bái, Tuyên Quang coi như là chiến khu trong thời đánh Pháp.
2. Cách mạng đây ám chỉ ngày 19 tháng 8 năm 1945 (Việt Minh cướp chính quyền).  
Tôi sẽ trở lại nói chuyện về rừng Việt Bắc sau này, bây giờ đề cập vào việc Tết giải phóng cái đã. Nhưng trước hết phải nói qua về thành phần tù binh trong trại C.100 này. Các vị có thể hình dung đó là những chàng trai tuổi 20, vừa tốt nghiệp Khóa 1, Khóa 2 Sĩ Quan Trù Bị Nam Định và Thủ Đức, các sĩ quan thâm niên hơn xuất thân từ Khóa 1 tới Khóa 6 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, lại có cả một bác sĩ quân y và cũng phải kể các Trung Đội Trưởng được đào tạo cấp tốc tại Bắc Việt cho các đơn vị Địa Phương Quân. Họ đến từ khắp các chiến trường, có bạn từ Kontum, Ban Mê Thuộc (lặn lội 2 tháng qua dãy Trường Sơn để tập trung về đây hoặc từ Mặt Trận Tây Bắc - Nghĩa Lộ, Lai Châu, Mộc Châu, Nà Sản, hoặc từ các trận công đồn ở đồng bằng, từ các trại ở Thanh Hóa chuyển ra, hoặc sốt dẻo hơn là trận Điện Biên Phủ đưa về. Không biết đây là “thượng sách” hay “hạ sách” của Việt Minh khi tập trung tất cả các sĩ quan về ở chung một trại, vì trước kia họ giam sĩ quan chung với hạ sĩ quan và binh sĩ ở rải rác khắp nơi: một trăm người tất cả. Một sự tình cờ ngộ nghĩnh là bọn Việt Minh đặt tên trại là C.100 (theo VM thì A là Tiểu Đội, B là Trung Đội và C là Đại Đội). Khi gặp nhau trong hoàn cảnh sa cơ thất thế này, họ cảm thấy thương yêu nhau hơn bao giờ hết, thật đúng nghĩa bốn chữ “huynh đệ chi binh”.
Còn 3 tháng nữa mới đến Tết, thế mà cán bộ đã phát động THI ĐUA, thi đua mọi mặt để lập thành tích dâng lên cho Hồ Chủ Tịch, Đảng và chính phủ gọi là để chào mừng Xuân Mới. Các khẩu hiệu “Lao động là vinh quang”, “Hồ Chủ Tịch muôn năm”, “Đảng Lao Động Việt Nam muôn năm” v.v... được kẻ bằng mực đỏ hay sơn đỏ tươi như máu và treo la liệt khắp nơi. Ở đâu và lúc nào các khẩu hiệu đó cũng dán vào mắt tù binh. Và kể từ ngày đó, mỗi người phải làm việc gấp hai, có khi gấp 3 ngày thường, làm ban ngày chưa đủ còn phải tranh thủ làm đêm, làm luôn cả ngày Chủ Nhật nữa. Chắc quý vị sẽ hỏi: “Ở tù mà làm cái gì?”. Phải biết tù binh trong tay V.M. không giống như tù binh mà QLVNCH giam giữ ở Phú Quốc (tức được ăn no, ngủ kỹ, mặc ấm lại chẳng phải làm gì động móng tay) mà phải làm lao động tận lực trong lúc trời Đông giá rét, ăn chẳng được no, áo quần rách tả, rách tơi, làm việc cho tới khi kiệt quệ ngã xuống mới thôi. Tùy theo khả năng chuyên môn của từng người, cán bộ phân tù binh ra từng tổ: nào là tổ dệt chiếu, tổ đan rổ, đan thúng, tổ làm canh nông phá rẫy trồng sắn, trồng ngô, vừng hay lúa, sau hết các tay cầm viết không có nghề ngỗng gì thì bổ sung vào tổ đi làm thuê cho dân làng hoặc làm cỏ lúa, bắt cua hay gánh thóc thuế nông nghiệp đi nộp vào kho nhà nước. Sau phần công tác lao động là học tập và kiểm thảo. Ôi thôi, không biết bao nhiêu đề tài để học, đêm nào cũng tập trung lên hội trường để nghe cán bộ nhồi sọ, nào là “Chủ trương đường lối của Đảng”, nào “Lượng khoan hồng của Hồ Chủ Tịch”, nào “Căm thù thực dân đế quốc”, nào “Chính sách cải cách ruộng đất”, nào “Vô cùng thương tiếc đại đồng chí Sít-ta-lin” v.v... và hội trường vừa giải tán xong là trở về lán (chỗ ngủ) để họp tổ thảo luận để tổ trưởng biên chép mang nộp cho ban Chỉ Huy trại xong xuôi thì tù binh mới được quyền ngã lưng. Lúc bấy giờ ít nhất đã là nửa đêm, gà đã gáy canh hai rồi, anh em mệt quá ngủ thiếp đi không còn sức đâu nghĩ tới gia đình và cũng quên đi cái lạnh cắt da, cắt thịt ở vùng núi Việt Bắc. Ngủ chưa đã giấc thì một hồi kẻng vang lên, anh em phải chỗi dậy chạy ra sân sắp hàng tập thể dục và bắt đầu một ngày lao động mới. Học tập không chưa đủ dằn vặt đầu óc tù binh, cán bộ còn bày trò kiểm thảo, hay nói đúng ra là bắt tù binh làm tờ thú tội vì khẩu hiệu đã được vẽ trong vách “người nói không có tội, người nghe sửa mình”, tờ thú tội đó sẽ được chính mình đọc lớn trước tổ để được anh em nghe và phê bình, nếu lời khai còn thiếu sót chỗ nào mà có người biết và bổ túc cho thì cán bộ sẽ đánh giá mình là chưa thấm nhuần chính sách, chưa thành khẩn bộc lộ sai lầm, hay nói cách khác là mình bị ghép vào thành phần ngoan cố chưa xứng đáng được hưởng lượng khoan hồng và như vậy ngày phóng thích mà mình hằng chờ đợi lại càng lùi xa hơn nữa. Đến đây tôi xin mở ngoặc, nếu không có thỏa ước Genève và ngưng bắn năm 1954 thì 100 anh em chúng tôi đã rục xương trong tù.
Tưởng cũng nên biết qua, trong gần 3 năm bị giam cầm, Ban Chỉ Huy trại đã bắt chúng tôi khai lý lịch trên 10 lần, có lẽ họ muốn coi mình khai có thành thật không, trước sau có giống không, hoặc để họ căn cứ vào đó mà quy định thành phần mình thuộc loại nào, trí thức, tiểu tư sản, địa chủ hay bần cố nông để tùy theo loại mà trừng trị. Còn thi đua với kiểm thảo thì không biết cơ man nào mà kể. Mỗi lần thi đua là có kiểm thảo để gọi là lấy thành tích chào mừng các Ngày Kỷ Niệm hay Lễ Lớn như “Kỷ niệm ngày thành lập Đảng Lao Động”, “Ngày Quốc Tế Lao Động”, “Ngày Sinh Nhật Hồ Chủ Tịch”, “Cách Mạng Tháng Tám”, “Lễ Độc Lập” và “Tết Nguyên Đán”.
Sau hết phải nói tới phần ẩm thực vì nó là động cơ thúc đẩy mọi hoạt động: suốt năm ăn đói, thiếu chất mỡ, chất ngọt và cả chất mặn nữa. Ngày thường tù binh ăn uống rất thiếu thốn, thường là cơm độn với sắn (khoai mì) hay ngô (bắp) nhưng gạo rút từ 500g mỗi ngày xuống còn 300g (tức một chén cơm) nên ai cũng thèm lạt vì thức ăn chỉ có rau muống chấm tương hay bí rợ nấu muối hay cà chua nấu loãng làm canh, thịt cá thì đừng nghĩ tới, chỉ có bộ đội hay cán bộ được hưởng theo từng tiêu chuẩn “Tiểu táo”, “Trung táo” hay “Đại táo” mới có thứ đó mà xơi.
Vì vậy tù binh chỉ mong mau tới Tết để ăn thịt một lần (cho có chớ không phải cho đã), mà đó là thịt trâu. Kho cũng thịt trâu, xào cũng thịt trâu, canh cũng thịt trâu. Ngày Mồng Một được no nê một bữa, nhưng từ Mồng Hai đến Mồng Mười chỉ ăn cơm với muối vừng (mè) vì tiền chợ mười ngày dồn vào con trâu hết rồi. Tuy nhiên không phải có tiền mà được ăn thịt, vì muốn ăn thịt phải có phép của Thượng Cấp, tù binh không có quyền thụ hưởng như bộ đội hay cán bộ, cho treo mỏ là một hình thức trả thù, vì Cộng Sản cho tù binh sĩ quan là thành phần “ngồi mát ăn bát vàng” hoặc “chỉ tay năm ngón” ngày xưa. Nhưng muốn ăn ngon miệng một bữa, thì trước hết tù binh phải ca tụng chế độ bằng mọi hình thức văn nghệ. Ai cũng làm một câu vè, một bài thơ hay viết một vở kịch có nội dung căm thù giai cấp, mạt sát Quốc Gia, đề cao Cộng Sản, thậm chí có câu vè như thế này của cán bộ mớm lời được hò lơ cả chục lần trong một buổi học tập:
Câu vè là:
Bảo Đại mày dại làm sao,
Nửa đêm dắt mẹ xuống ao ăn bèo.

Cán bộ văn công dạy tù binh hát những bài hát lai căng, nhưng tù binh cũng phải hát cho làu mà trong bụng thì chẳng ưa gì:
Đông phương Hồng, mặt trời lên
Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông
Với muôn dân, người là cứu tinh
Tang tính tang tình. Dân ấm no. Người mưu Hòa Bình.
Bài Quốc Tế Ca (Internationale) được phổ bằng tiếng Việt, bài ca ngợi Xít-ta-lin và ca ngợi Kim Nhật Thành cũng được phổ biến sâu rộng.
Riêng tù binh cũng sáng tác, lời lẽ không thể làm vừa lòng cán bộ được, nên chỉ lén lút truyền khẩu giữa anh em với nhau. Đây là một bản nhạc do Trung Úy Thụ sáng tác trong dịp Tết cuối cùng (1955) hy vọng ngày phóng thích gần kề:
Rời rừng xanh sâu
ta tiến về nơi Thủ Đô
Cuộc đời âm u,
giờ phút phân ly không vương sầu,
Một trời màu xanh, cây bao la rừng hoang tối tăm.
Chúng ta vui đi về, cố đô, nơi quê hương nhà...
Từ lâu, ta nuốt bao nhiêu hận căm thù,
Cuộc đời thanh niên ta tối tăm vì đâu.
Đời vui sao có bao nhiêu biệt ly
Đã qua bao nhiêu ngày rừng hoang
Ồ ô!
Tức cảnh thành thi.

Mặc dù là cảnh buồn, nhiều nhà thơ bất đắc dĩ xuất hiện chuyền nhau đọc cũng thấy an ủi phần nào, như bài dưới đây do tôi sáng tác:
 
RỜI RỪNG  
Chắc ta sắp lìa mi rừng ạ,
Về xóm làng thị xã miền xuôi.
Ba năm chia ngọt xẻ bùi,
Ra đi lòng những ngậm ngùi nhớ thương.
 
Rừng với ta ngày nào quen biết,
Buổi công đồn quyết liệt: tù binh.
Bước đầu trong cuộc phiêu linh,
Nhìn nhau sợ hãi, lặng thinh đi vào.
 
Rừng khẽ bảo, cớ sao mà sợ,
Rằng đôi ta như vợ với chồng.
Suối trong ngụm nước mát lòng,
Củi đây người đốt, đêm đông sưởi cùng.
 
Nào những buổi, lên rừng chém nứa,
Đẵn gỗ về cất lán, làm sàn.
Làm phênh, đập nứa ta đan,
Cắt tranh về lợp trang hoàng nhà ta.
 
Rời rừng Việt Bắc hôm nay,
Về xuôi ôn lại những ngày tối tăm.
Những ngày đau khổ âm thầm,
Lê đời tù tội ba năm vừa tròn.
 
TỰ THÁN  
Ất Mùi Năm Mới đến nơi rồi,
Tết nhất làm chi khổ thân tôi.
Ra đi đất Bắc tôi lầm tưởng,
Cảnh đẹp người xinh đón rước tôi.
Nào hay sau, trước vừa ba tháng,
V.M đánh “bốt” bắt tù rồi.
Cuộc đời chìm nổi đâu cứ mãi,
Quả đất tròn kia cũng có ngày.

Và ngày ấy là ngày tôi còn sống, tôi ngồi ghi lại mấy dòng này để các bạn đồng hương đọc mà thương những người đã, hoặc đang ngậm hờn nuốt tủi trong ngục tù Cộng Sản.
Paris, Giáng Sinh 1977
  
         Nguyễn Đình Lang

  
         exDL0 (5eGAVN)


TONY DƯƠNG * NHỮNG CÁNH CHIM KHÔNG MỎI


NHỮNG CÁNH CHIM KHÔNG MỎI-Tony Dương-
Đây là lần thất bại thứ mấy rồi, tôi không còn nhớ được – nhưng thất bại bị ở tù thì đây là lần thứ hai.
– Lần thứ nhất: Cùng ông anh rể, xuống tuốt mãi Trà Vinh: Họ dụ khị để bán vé, rồi bắt bỏ tù 10 tháng, đòi đem tiền chuộc mạng, mới tha!!! (có đáng nổi loạn chưa?)
– Lần thứ hai: Tham gia cướp tàu có vũ khí (đã nổi loạn thật rồi!!!); tù 15 tháng!…
Các cụ bảo: “Cùng tắc biến, biến tắc thông” xem ra chẳng đúng một ly ông cụ nào trong trường hợp của tôi cả!…Cái cảnh “cùng đường” của tôi đã được bọn chúng tôi “khuấy lên thành BIẾN “!…Thế nhưng cái “tắc biến” đó lại dẫn tôi đến nơi “tắc tị”… Tôi vừa suy ngẫm như thế, vừa thất thểu trên đường chẳng biết đi về đâu. Với nước da bạc thếch lốm đốm những nốt ghẻ ruồi và muỗi đốt, nhất là cái đầu trọc lốc dễ gây chú ý cho những người qua lại, và không dấu được hành tung của một tên tù, hay ít ra là của một tên tù vừa được thả, thì bỗng nghe có tiếng gọi tên tôi…Một cô gái cũng khá tiều tụy, từ bên kia đường đang hăm hở lách dòng xe cộ băng qua. Hóa ra là Ngọc Bảo, một sinh viên trước năm 1975 và cũng là vị hôn thê của tôi. Chúng tôi đưa nhau vào một quán cóc ven đường. Ngọc Bảo cho biết nàng cũng vừa được thả từ huyện Duyên Hải về tuần trước. Về chuyện của tôi cả hai bên cha mẹ đều đã biết. Các vị buồn chứ không lo lắng lắm. Riêng Ông Già Vợ của tôi thì “phán” thêm một câu: “Ngựa non háu đá!” và nói với Bảo rằng ông muốn gặp tôi chừng nào tôi được tha về.
Ông già vợ tôi là người có khuynh hướng thực dụng, làm việc cần cù và rất thận trọng. Phân tích những lần thất bại của tôi và của các ông – ông thường dựa vào 3 yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa… nhưng luôn nhấn mạnh “chính mình phải luôn luôn nắm lấy lấy thế chủ động “. Việc gì cũng vậy, nếu chưa chuẩn bị chu đáo thì hãy chờ thời.
Từ đó tôi ở hẳn nhà bố mẹ vợ tôi. Tứ thân phụ mẫu đã cùng lo tổ chức hôn lễ cho chúng tôi. Sau đó nhờ sự quen biết rộng rãi ông xin nhập hộ khẩu cho tôi. Dịp này chị tôi từ Mỹ gởi về mừng chúng tôi một số vốn kha khá. Vợ tôi sang được một sạp bán đường, đậu, bột tại chợ Hòa Bình. Còn tôi học được một lớp máy nổ tại Trường Kỹ Thuật Cơ Khí trên đường Vườn Chuối Sài Gòn.
Năm 1984 chúng tôi có một cháu trai, ba năm sau nữa vợ tôi sinh thêm một cháu gái. Vợ chồng tôi tâm sự với ông:
“Chúng con thấy trách nhiệm ngày càng thêm nặng…Chúng con không thể để các cháu lớn lên trong cái xã hội mỗi ngày thêm một thoái hóa này được được…”
Ông nhìn tôi thích thú: “Tôi tưởng những cánh chim bằng đã mỏi rồi chứ!” – Rồi ông cười ha hả…
Có lần ông kể cho tôi nghe như một lời gợi ý: một lần ông đến liên hệ công tác với công ty Hải Sản quận 6, Giám đốc công ty này thấy ông nói tiếng Bắc, lại than sắp về hưu, ngỡ ông là cán bộ, nên vồ́n vã: “Lo gì đồng chí cứ xuống đây“…
Chúng tôi bèn nhờ ông mở hồ sơ tại đó và lấy những tài liệu cần thiết. Sau đó chúng tôi chính thức đến phường xin thị thực chữ ký và đem đơn đến Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố nạp ở Sở Thủy sản để xin phép đóng thuyền đánh cá ven biển. Được giấy phép, chúng tôi đến Hợp Tác Xã Sao Vàng tại quận 8 ký hợp đồng đóng thuyền. Ngày thuyền đóng xong, khánh thành hạ thủy, chúng tôi cũng mời thầy cúng Tổ Nghiệp. Tiệc khánh thành chúng tôi mời công nhân hợp tác xã và hai anh công an địa phương tham dự. Rượu nửa chừng, anh công an trưởng nửa đùa nửa thật:
“Này, chừng nào cậu vượt biên nhớ rủ tớ với nhé!”
Vợ tôi tái mặt, tôi vội bỏ đũa đùa lại: “Dạ, nếu anh chịu thì nhất định em sẽ đến tận nhà mời cả chị và các cháu nữa!”
Anh công an khu vực cũng thêm vào: “Các cậu cứ ngồi lai rai, tớ phải đi rồi, chiều nay tớ sẽ tóm một lũ vượt biên cho coi!”
Lúc đó đã quá 3 giờ 30 chiều. Tiệc tan, chúng tôi cũng dọn dẹp xong, sau đó tôi đi tìm được anh công nhân để nhờ giới thiệu một người thợ máy. Chuyện vãn một lúc lâu, tôi chở vợ tôi trên chiếc xe Lambretta sport cổ điển rời khỏi bến sông. Đi vào trong xóm, còn xa mới ra đến đường Phạm Thế Hiển, đã thấy phía trước môt đoàn người bị trói thành một giây đang bị dẫn đi. Thấy tôi, anh công an khu vực khi nãy hất hàm kênh kiệu:
– Thấy chưa?
Tôi đùa lại:
– Anh phát tài rồi!
Vỏ thuyền có rồi, bây giờ đến giai đoạn làm máy. Công đoạn này, và trong giai đoạn 1987 này mới thật vất vả. Tôi còn nhớ hồi đầu phong trào vượt biên, người ta tìm kiếm vỏ tàu phải là dài hơn 20m, 19 là bị chê rồi. Máy thì chọn Yanmar 8 lốc đầu bạc, hèn cũng phải 6 lốc, 4 lốc là bị chê, đầu xanh cũng chê… Còn bây giờ thì bói cũng không mua nổi một máy hai lốc được cho là tạm ổn. Cuối cùng chúng tôi chọn mua trong đống phế liệu một thân máy hai lốc thật cũ xì hiệu Kiloska sản xuất tại Ấn Độ – anh thợ máy, người tôi nhờ đi mua giải thích:
– Cái thân máy này có thể cải tiến được:
1 – Thân máy rất dầy, các máy dẫn nước giải nhiệt còn nguyên chưa bị nước biển bào mòn gây rò rỉ
2 – Trục máy rất lớn có thể mài mà không sợ yếu.
3 – Phần thân đặt cylinder rất dầy tha hồ xoáy, để thay cặp cylinder to nhất.
4 – Các bộ phận khác ta còn có thể kiếm ra…
Khi đem về tái tạo, chúng tôi thay vào bằng một cặp cylinder Yanmar và một cặp Piston Kubota mới toanh, chỉ còn thiếu một cây lap cốt cam. Anh thợ máy lại một phen vất vả mất mấy ngày mới vác về một cây lap, hình như được tháo ra từ một cái máy điện nào đó, sau khi anh hì hục chế biến, rồi cũng lắp vào được.
Tiện, xoáy, đục, đẽo, cắt, mài thôi thì đủ cả…Các công đoạn giờ đã hoàn thành. Chúng tôi cho nổ máy thử, tiếng nổ âm vang, từ dòn tan như bắp khi ga thấp, cho đến rền êm khi tăng ga lên tối đa. Chiếc thủy động cơ của chúng tôi giờ đây như mới, tôi bảo đảm ngay đến ông chủ hãng Kiloska Ấn Độ có thấy cũng không dám nghĩ đó lại là từ sản phẩm của mình.
Máy được lắp đặt vào vỏ thuyền xong xuôi, chúng tôi chuẩn bị cho bữa tiệc khao quân trên sông nước. Thức ăn đã được bầy ra ở khoang trên, rượu, thuốc lá đã sẵn sàng. Tôi mường tượng chút nữa đây, vừa cầm lái cho thuyền vun vút trên sông, vừa nâng ly chúc tụng nhau cho bõ những ngày mồ hôi chảy…
Đến giờ hoàng đạo, anh thợ máy lệnh cho tài công quay máy. Tôi đứng cạnh anh, chờ sai bảo khi cần. Máy nổ rộn ràng tựa tiếng vỗ tay chào mừng của một đám đông. Anh thợ máy ra lệnh tiếp cho tài công gài số tới và kéo ga…rời bến. Thuyền giật lên chuyển mình. Tất cả mọi người hoảng hốt! Thay vì thuyền tiến lên rời bến, thì nó lại thụt lui thật mạnh…suýt gây tai nạn phía sau…Anh thợ máy hoang mang suy tính…Tôi trấn an;
– Thôi thì…ta vừa bàn vừa nhậu…Thịt rượu sẵn sàng rồi…
Kiểm tra thật kỹ từng động cơ qua hộp số đến chân vịt…không có gì sai sót. Vậy nguyên nhân từ đâu? Máy vẫn nổ nhẹ nhàng khi khởi động…Tắt máy để kiểm tra thật kỹ vẫn không thấy gì bể gẫy…Thôi đây rồi…Tôi chợt hiểu; Tất cả chỉ tại cây cốt cam…Một thứ: “Râu ông nọ cắm cằm bà kia “
Từ những kiểm tra thực tế đó, tôi đi mua ngay một cái chân vịt trái chiều. Cuối cùng thuyền của chúng tôi: lui tới ngon lành như bao thuyền khác. Nhưng khi kiểm tra về tốc độ…mới thật là số Dách!…Máy mạnh thuyền chạy nhanh là chuyện rất bình thường. Trong trường hợp thuyền của tôi chỉ có chúng tôi mới biết: nó mạnh nhờ cặp cylinder và piston quá khổ!…
Chúng tôi đăng ký vào Hợp Tác Xã Đánh Cá Nhà Bè. Từ một người mất chỗ đứng trong xã hội “xhcnvn” giờ đây tôi đã trở thành Thuyền Trưởng kiêm Thợ Máy và “chỗ đứng của tôi nhất định là trên con thuyền “ này rồi!!… Vợ tôi là chủ phương tiện đánh cá này, hay nói cho oai là Chủ Tầu đánh cá! Lương, em trai vợ tôi là tài công, cô vợ tôi, chị gái tôi, em gái vợ tôi là thuyền viên!…Thành lập một danh sách như thế để đi đăng ký hành nghề đánh cá, tôi mới thấy một khoảng trống không thể nào chấp nhận được! Bạn đi đánh cá ven biển thì có thể là đàn ông, đàn bà, già trẻ gì đều được ráo…Nhưng chỉ có hai mống đàn ông là không thể được!!! Khi ra khơi lỡ một người ốm đau thì sao? Cuối cùng chúng tôi phải rủ thêm anh Bình, một bạn hàng xóm tham gia, với điều kiện anh phải góp vào năm chỉ vàng. Đây chỉ là điều kiện chúng tôi cầm chân anh mà thôi. Cho đến lúc đó, thông thường vượt biên vẫn phải là 3 “cây” trở lên, điều kiện chúng tôi đưa ra làm anh ngỡ ngàng…Dĩ nhiên là anh mừng húm, bắt ngay.
Kể từ lúc đó chúng tôi chăm chỉ hành nghề! Nếu ai tinh ý sẽ thấy chúng tôi xuất bến ra khơi kể cả các ngày giông gió lớn. Đi đi về về đến độ sạp đường, đậu, bột của vợ tôi tại chợ Hòa Bình cứ mỗi ngày một teo lại. Thực ra những ngày ra khơi là tập cho quen để không say sóng, tập nhảy sóng ra sao, tập đoán thời thiết bằng cách nhìn ráng trời, mây, nước, và cũng là quan sát địa hình cũng như thực trạng hoạt động của biên phòng và của các tàu đánh cá quốc doanh. Buổi tối, tôi thường neo thuyền và đăng ký tạm trú tại bến công an biên phòng cửa sông Rinh. Mỗi lần được phép đi đánh cá là phải mua cá để khi về có cá bán cho Hợp Tác Xã, hay ít nhất cũng phải có chút đỉnh làm quà cho biên phòng và công an dọc bờ sông. Năm 1986, Tường Vân em gái của vợ tôi được người anh họ đưa đi đã đến bến tự do. Từ đảo Galang cô gửi thư về, ngầm chỉ đường cho tôi tìm gặp người taxi chở cô.
Nắm rõ tình hình, tôi ra bến xe mua vé đi Bà Rịa, đem theo xe đạp. Còn cách Bà Rịa 18 cây số, tôi xuống xe, đạp khoảng hai cây số, tôi thấy một xe nước mía bên đường, ghé vào nghỉ chân, kêu một ly nhâm nhi giải khát, nhìn sang bên kia đường…Tôi tìm thấy một căn nhà tranh vách đất, trên vách gần cửa có trổ một cửa sổ tròn, nhìn qua bên phải có một trạm sửa xe màu xanh dương. Băng qua đường tôi đi thẳng đến căn nhà tranh. Từ sân nhìn xuyên qua nhà vào tận bếp, tôi thấy một người đàn bà và một đứa nhỏ, tôi mạnh dạn lên tiếng như một người quen:
– Chị Cang ơi! Anh Cang có nhà không?
Người đàn bà bế con ra ngó tôi lom lom:
– Anh…mà xin lỗi..Anh là ai?
– Tôi là anh của cô Vân
– Cô Vân nào cà?…Mà anh tìm anh Cang có chuyện gì không?
Tôi nghĩ người đàn bà này thật khôn ngoan, kín đáo, biết rõ việc của chồng mà chị ta vẫn vờ như không biết.
– Cũng có chút việc muốn nói với anh ấy, chị có biết bao giờ anh ấy về không?
– Mọi khi giờ này về rồi, còn hôm nay thì tôi không biết.
– Thôi được! Tôi ra ngoài một lát, chút nữa tôi quay lại vậy!
Tôi vừa quay ra thì chị vợ reo lên;
– Kìa, anh ấy về rồi.
Tôi thấy một anh chàng thanh niên khoảng gần 30 tuổi từ ngõ bước vào sân, dáng đi vững vàng chắc nịch, khổ người cao to cân đối, nước da nâu bóng nhẫy, rõ ra một người suốt ngày sống với sóng gió thiên nhiên. Nét phong trần phóng khoáng của anh khiến tôi có tình cảm ngay khi gặp mặt.
Thấy tôi, đôi lông mày Cang hơi nhíu lại, thì chị vợ lên tiếng:
– Anh đây là anh của cô Vân
– Làm sao anh biết mà ra đây?
– Em tôi viết về giới thiệu cho tôi, mấy tháng trước cô ấy đã ở đây vài ngày, nên tôi ra đây để cám ơn anh chị.
Hình như Cang còn do dự, chưa đủ tin, tôi tung thêm đòn tối hậu:
– Lúc mới đến đây nhìn thấy chị Cang, tôi đã hoàn toàn tin là tôi đã đến đúng nhà và tìm đúng người, vì chiếc áo sơ mi mà chị đang mặc, chính là chiếc áo quen thuộc mà ở nhà em Vân thường mặc.
Đến lúc ấy Cang mới chịu đưa tay ra bắt tay tôi và vui vẻ mời tôi ngồi uống nước.
Lúc đó đã quá trưa, chị Cang nhanh nhẩu dọn cơm và mời tôi cùng ăn với anh chị. Xong bữa thì chúng tôi đã thực sự thân tình. Anh pha hai ly cà phê rồi kéo tôi ra sau nhà ngồi dưới gốc điều (đào lộn hột ) xum xuê rợp bóng. Tôi hỏi anh:
– Bữa trước cá lớn của anh Diệm nằm có xa không?
– Khoảng một giờ taxi thôi.
– Từ đấy ra biển bao xa?
– Gặp lúc nước ròng cũng chỉ khoảng một giờ đồng hồ
– Có thể tìm được bến khác tốt như thế không
– Ăn thua là cá lớn, lớn hay nhỏ thôi, nếu chỉ bằng của anh Diệm thì vùng này thiếu gì vũng có thể làm bến.
Tôi đề nghị anh Cang cho tôi đi chơi một vòng, nhân tiện thăm cho biết bến của anh Diệm ra sao. Cang lấy đưa tôi một bộ quần áo của anh để tôi “giả dạng thường dân”, mặc dù bộ quần áo của tôi đang mặc trên người chẳng đáng giá gì.
Trên chiếc tam bản, tôi ngồi đằng mũi, cũng hờ hững cầm theo một mái chèo. Cang ngồi lái, con thuyền uốn lượn đưa tôi đi như đi trong một mê hồn trận. Thật là một vùng trời nước mênh mông luồn lách dọc ngang chằng chịt, nếu không phải là người địa phương, đã vào đây cầm chắc sẽ lạc lối, khó tìm được đường về. Ấy thế mà Cang luôn miệng giải thích chỗ này là gò ếch, chỗ kia là vũng cua…
Lúc này nước đang dâng lên và bóng tồi bắt đầu phủ xuống. Chúng tôi ra về, đêm đó tôi nghỉ lại nhà Cang.
Sáng sớm hôm sau, theo đề nghị của tôi, Cang đưa tôi ra biển. Cũng may lúc đó nước vẫn còn ròng, nên khoảng hai tiếng sau thì tôi đã nghe tiếng sóng biển rì rào. Cửa rạch mỗi lúc thêm mở rộng…Trước hình như có một cái đảo chặn ngang tầm mắt. Cang bảo chúng tôi đã ra đến biển – Vì lúc này nước đã hết ròng, mép nước biển cũng đã rút ra xa, nên mới thấy được trọn vẹn cả bãi bùn lẫn cồn đất đang bồi. Lúc nước lớn mặt cồn hoàn toàn chìm dưới mặt nước sâu khoảng ngang thắt lưng – Tuy nhiên các lùm cây vẫn xanh um. Chúng tôi bơi xuồng vòng ra phía ngoài mặt cồn cạn. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn ra khơi, nhấp nhô đây đó những con thuyền đánh cá. Xa xa về bên trái là một dốc đá, trên đó thấp thoáng có một ngôi chùa, Cang cho biết ngôi chùa bỏ hoang từ lâu, bây giờ chỉ là chỗ nghỉ trưa, ăn cơm của những người mò cua bắt ốc. Ngay bên dưới chỉ là vũng bùn, nên tất cả những ghe cào cũng lánh xa. Xa hơn nữa là cửa sông Rinh, mà bên kia là đồn công an biên phòng nằm gần như dựa vào chân núi lớn Vũng Tàu. Về bên mặt chúng tôi, lác đác những hàng cột đáy, càng xa về huyện Duyên Hải và Vàm Láng cột đáy càng thêm dày đặc.
Lúc trở về, vì là nước dừng và cạn nên chúng tôi phải chèo thuyền rất vất vả, phải mất một thời gian dài gấp hai lần chuyến đi, mới về đến nhà. Tuy vậy có một cái lợi là tôi quan sát được độ nông sâu của con rạch, căn cứ vào các thân cây để lại vết bùn rêu bám vào khi nước lớn. Trước khi rời nhà Cang, tôi hỏi;
– Sao anh không tự lực làm một mình mà phải dựa vào người khác? Tôi thấy anh cũng tháo vát lắm mà!
– Chúng tôi chỉ mới đến đây đây được vài năm thôi nên không quen biết nhiều.
Về lại Sài Gòn tôi tìm mua được một bản photocopy bản đồ hải hành thuộc vùng cửa sông Rinh để nhận định được rõ vị trí mà tôi và Cang đã đi suốt một ngày rưỡi trên thực địa. Tôi thấy có thể chọn vùng này làm nơi xuất phát. Tôi đem dự kiến của tôi bàn lại với ông già vợ và trình bầy khái quát; Buổi đi biển chót, không về bến, đợi đến tối khuya khi nước lên, dẫn thuyền vào lạch mất một giờ, bốc dầu, bốc lương thực, bốc người tối đa một giờ, quay thuyền trở ra biển thêm độ một giờ nữa, là khoảng độ 3 tiếng đồng hồ tất cả. Như vậy khoảng 3 giờ 30 sáng thuyền sẽ thong thả ra khơi, như bất kỳ một thuyền đánh cá nào khác. Nghe xong ông già vợ tôi phản bác ngay:
– Vẫn hoàn toàn bị động! Này nhé, từ lúc bắt đầu vào lạch là lúc thuyền trở nên bất hợp pháp, ba giờ là tối thiểu, lúc nào thuyền cũng bị lệ thuộc vào con nước, ba giờ đầy bất trắc cho thuyền không phải là ngắn ngủi. Nếu thuyền không gặp rủi ro, nhưng nhóm taxi gặp phải thì thuyền vẫn bị vạ lây, không có cách nào gỡ ra được! Tại sao ta không đem điểm xuất phát ra tuốt bên ngoài?
Tôi chợt hiểu:
– Như vậy con có thể chọn điểm ở gần cồn cạn?
– Tại sao không chính là cồn cạn?
– Lúc nước lên cồn cạn bị ngập nước.
– Càng tốt, nhóm taxi càng không thể lên đổ người lên đó rồi rút trước, mà sẽ ẩn kỹ trong các lùm cây trên đó.
Tôi hiểu ý ông già vợ, lúc nào cũng muốn bảo vệ thuyền, và còn muốn nhóm taxi tham dự vào công việc để bảo đảm sự thành công. Tôi kể cho ông nghe về chuyện gặp gỡ của tôi với Cang – và ý muốn của tôi sẽ nhờ Cang…Sau khi hỏi tôi về tính tình, gia cảnh của anh, ông đồng ý với tôi nên nhờ Cang là phải.
Tôi bèn nhờ ông hôm sau đi gặp Cang để bàn chi tiết, kể cả tiền bạc. Kết quả ông mang về thật hợp lý và tốt đẹp.
Nhằm làm cho Cang lên tinh thần bằng cách tạo cho anh ta một hy vọng “Bắt được cái mối lâu dài”, khi gặp Cang ông đóng vai Người Chuyên Tổ Chức. Ông hỏi Cang có dám đưa nguyên một nhóm taxi ra hẳn ngoài biển không? Cang nhận và nói đến số đầu không quá 20, bởi lẽ chỉ riêng anh chị em ruột của anh ta có tới 5, thêm vào là ông bố vợ với hai người em vợ. Về phần giá cả Cang chỉ xin 2 chỉ mỗi đầu. Ông đồng ý với điều kiện là không được đổ khách xuống bãi. Ông còn tố thêm là sẽ thưởng thêm 1 chỉ cho mỗi đầu khách nếu “ráp nối” thành công. Ngoài ra nếu chẳng may không ráp nối được, taxi phải cố gắng đưa khách về an toàn sẽ được hưởng 2 chỉ tiền công lần về. Công lần đi thanh toán ngay khởi sự.
Chúng tôi cũng thỏa thuận nhờ Cang mang dầu ra dấu ngoài biển, mỗi can 30 lít với giá 1 chỉ. Trong khi giá bình thường trong đất liền một chỉ mua được gần ba chục can.
Nước ngọt để uống cũng vậy: 1 chỉ cho mỗi can 30 lít. Cang lý luận: Gánh dầu hay nước ngọt ra biển bị bắt cũng tù như tội tổ chức vượt biên…Để tiết kiệm tiền về vụ nước, tôi lập tức ngăn phần mũi nhọn của thuyền thành một hầm nhỏ chứa nước. Ốp hai lần gỗ, ở giữa chèn trấu khô cho nước không thấm, vách ngăn với khoang thuyền tôi đặt một vòi nước cho tiện. Phía trên bên ngoài tôi cũng mở ra một nắp như các hầm thuyền khác. Trong hầm này từ đó lưu trữ thường xuyên 5 cây nước đá 50 ký (5×50=250 lít). Đó là tiêu chuẩn nước đá được đem theo cho các thuyền đánh cá. Thể tích của hầm trên 400 lít, ngày khởi sự chúng tôi sẽ đổ thêm nước cho đầy. Như vậy cộng với một phuy 200 lít được phép có trên thuyền, chúng tôi có trên 600 lít nước ngọt, dư cho cả 20 người trong cuộc hành trình.
Nhờ sự quen biết của gia đình, chúng tôi mời được một trung úy hải quân xưa kia phục vụ trong đơn vị tuần duyên VNCH dạy cho chúng tôi cách đi biển. Tất cả thân nhân trong gia đình chúng tôi, dù trai hay gái đều quây quần ngồi nghe ông chỉ. Từ cách đo toa độ trên bản đồ, cách bố trí vật dụng trước mặt tài công, và lái thuyền theo hải bàn – cho đến cách lái thuyền khi không có hải bàn hay hải bàn bị hư bể… Nếu trời trong, học cách nhận định đi theo hướng trăng sao. Nếu trời tối mây mù, ta có thể lái theo hướng gió. Ông nhắc chúng tôi: “Vùng biển Việt Nam có gió mùa, gió nồm thổi từ tây nam qua đông bắc, gió bấc thổi từ đông bắc xuống tây nam”.
Tìm phương hướng bằng cách nghe tiếng gió: Quay mặt về hướng gió thổi tới, nhẹ nghiêng mặt qua phải, rồi qua trái để nghe tiếng gió thổi ù ù vào tai bên này hay bên kia, nhẹ nhàng điều chỉnh sao cho tiếng ù ù ở hai bên tai cân bằng. Lúc đó, hướng mặt ta đang đi chính là hướng tây nam hay đông bắc. Từ vị trí hướng vừa tìm được, điều chỉnh mũi thuyền lên hay xuống bao nhiêu độ cho đúng với hướng đi là chuyện quá dễ dàng. Dĩ nhiên theo cách này còn cần đến một dụng cụ chia góc số theo hải bàn được phóng lớn cho dễ nhìn và dễ lái. Chúng tôi bèn lấy cái mâm nhôm cũ đang dùng trên thuyền, lật úp xuống khắc vào đáy, đoạn bôi đen nham nhở để ngụy trang, khi cần chỉ một miếng giấy nhám chà sạch, đáy mâm sẽ hiện rõ ràng nét khắc mầu đen. Khi xử dụng, nó sẽ được đặt úp dưới một sợi dây căng thẳng dọc theo chiều từ mũi xuống đuôi thuyền.
Khi nói về bão, ông cho chúng tôi biết đa số các trận bão thổi vào bờ biển Việt Nam thường xuất phát từ Thái Bình Dương thổi qua đảo Midanao – Phi Luật Tân. Vì nước ta ở bắc bán cầu nêu chiều xoáy của chúng theo kim đồng hồ, vì vậy hướng chúng lúc đầu như sẽ chạy thẳng vào Sài Gòn Vũng Tàu nhưng rồi thường chệch hướng dần dần thổi vào miền Trung, có khi vào miền Bắc, và có khi sang hẳn tới miền miền Nam Trung Hoa. Tránh bão tốt nhất là càng ra xa bờ càng tốt, vì gần bờ, bị sóng dội ngược rất cao. Xa bờ sóng dù cao nhưng khoảng cách từng đợt này đến đợt khác rất xa, nên độ dốc của nó trở thành thoải hơn, không đáng sợ…
Chúng tôi được đặt câu hỏi;
– Khi gặp bão nên lái thế nào .
– Bình thường ta có thể cưỡi sóng đi, đi ngược sóng, nhưng gặp bão sóng quá lớn thì không thể đi được, đành phải xuôi theo sóng gió. Có điều cấm kỵ cần nhớ để giữ cho thuyền không bị lật úp chớ bao giờ đưa sườn thuyền ra hứng một đợt sóng lớn.
– Đó là trường hợp máy thuyền còn chạy, còn xử dụng được bánh lái. Trướng hợp máy thuyền chết thì sao?
– Phải thả dù thôi…Vài trường hợp máy bay phản lực phải tung dù ra sau đưôi khi đáp xuống một phi trường có phi đạo ngắn, để giảm bớt tốc độ của máy bay. Vậy ta cũng phải áp dụng một động tác tương tự. Trên thuyền có vài cần xé đựng hải sản là chuyện bình thường, ta nên mua sẵn ba cái mới cho chắc ăn. Dùng ba hay bốn đoạn dây thừng bằng nhau, buộc vào miệng cần xé, những đầu kia cột chung lại, thế là ta có được một cái dù rồi. Khi hữu sự kết chung ba cái lại thành từng một chùm, cột thật chắc những đầu dây dù kia vào đuôi thuyền, rồi thả cả chùm dù xuống nước. Dù cần xé bằng tre tươi nhưng bao giờ cũng nổi mà chỉ nổi lập lờ dưới mặt nước. Bây giờ thuyền của ta là vật nổi trên mặt nước, hứng gió như những cánh buồm, bị sóng gió đẩy trôi đi nhưng đuôi thuyền phải kéo ba cái cần xé nên sức trôi của thuyền bị giảm đáng kể. Cái lợi quan trọng ở đây là mũi thuyền luôn đi trước, đuôi thuyền đi sau, và không bao giờ có trường hợp thuyền đưa sườn ra hứng sóng.
Một câu hỏi về vấn đề khác;
– Thuyền đang chạy trên đại dương, chung quanh có những tàu thuyền khác, làm sao để biết cái nào đang đuổi bắt mình?
– Ta đổi hướng một góc độ nào đó, thuyền đuổi bắt tất cũng đổi hướng theo.
– Gặp trường hợp bị đuổi bắt, phải làm sao
– Tất nhiên phải tăng tốc tối đa, lúc này tốc độ là điều ăn thua nhất. Ở ngoài biển ta có nhiều ưu điểm hơn họ, thuyền ta càng chạy nhanh ta càng bỏ xa bờ, hiểm họa bị bắt càng giảm đi. Ngược lại phía đuổi càng lâu càng bất lợi, bởi lẽ lượng dầu chạy máy của họ rất ít không thể so với ta. Mặt khác 100 toán đi tuần thì đủ 100% toán bớt dầu để ăn nhậu hay chia chác…Nên lúc nào họ cũng sợ không đủ dầu để trở về, thế nên họ không dám đuổi xa đâu!
– Nếu bị đuổi trong khi thuyền còn đang trong sông rạch?
– Ta phải bắt chước lối chạy của kẻ cướp giựt. Đang chạy nó bỗng quay ngoắt vào một con hẻm, đợi cho cảnh sát đuổi quá trớn nó quay ra chạy ngược lại hướng cũ. Ở đây nếu bị biên phòng đuổi ta phải cố chạy ra biển, lỡ bị đuổi rát, nhắm một con lạch nhỏ, một lùm cây rậm rạp, tắt máy ngay rồi lao vào ẩn kín. Khi biên phòng vượt qua cho máy nổ lại tìm đường khác cố chạy ra biển…
Ngoài ra ông nhắc chúng tôi: Tại Đông Nam Á, các trại tiếp nhận thuyền nhân đều đã tuyên bố đóng cửa, nhiều thuyền đến sau ngày đóng cửa đang gặp khó khăn – Tuy nhiên vẫn còn hai nơi; Một là Nhật Bản từng tuyên bố cho 10,000 thuyền nhân đến định cư tại Nhật, nhưng mới có 3,500 người nên chắc họ sẽ tiếp đón dễ dãi. Hai là tại PhiLippine, tuy cũng đã tuyên bố đóng cửa, nhưng vẫn còn căn cứ Không Quân Mỹ Clack và căn cứ Hải Quân Mỹ tại Vịnh Subic, đó là những ngọn hải đăng!
Chúng tôi muốn tới Mỹ nên chọn Philipine khi chấm tọa độ ông trung úy nhắc:
– Cứ nhắm thẳng theo cánh tay tượng Đức Chúa Giê-Su đang dang tại núi hải đăng Vũng Tàu cho thuyền ra khơi, ta sẽ đụng Côn Đảo. Để tránh vùng hành nghề của các vùng đánh cá quốc doanh dù muốn đến mục đích nào cũng nên đi ngược lên phía bắc Côn Đảo, ra đến đường hàng hải quốc tế rồi hãy bẻ góc đi về hướng muốn tới. Ví dụ bẻ góc Tây Nam để Singapore, Malaysia, v v…Muốn đi Philippine cũng vậy, từ phía bắc Côn Đảo đến Philippine theo đường gần nhất phải chui qua hai nhóm đảo của Trường Sa. Giữa hai nhóm đảo này có một hành lang rộng rãi. Lúc này bộ đội Việt Nam đã chiếm đóng một đảo tại phía bắc hành lang này. Đối diện, về phía Nam hành lang cũng có một đảo bị Quân đội Trung Cộng chiếm đóng. Hai bên này vẫn hằm hè nhau nhưng không bên nào muốn nổ súng trước. Muốn đến Philippine qua ngả này phải canh cho thuyền đi ngang qua hành lang vào ban ngày để cả hai bên đều nhìn thấy rõ “đây chỉ là thuyền vượt biên”. Tuy nhiên cứ theo đường hàng hải quốc tế về phía tây nam, sẽ gặp nhiều dàn khoan dầu của các nước dọc theo lối đi. Hơn nữa đi lối này trên một chặng đường dài như thế, sẽ gặp rất nhiều tàu thuyền qua lại, có nhiều hy vọng được tiếp cứu và tương đối an toàn. Ông trung úy còn nhắc chúng tôi nên đem theo một cái Radio chạy pin, chủ yếu để nghe tin tức thời tiết.
Dĩ nhiên còn rất nhiều điều hữu ích cho những người đi biển mà ông trung úy đã dạy cho chúng tôi suốt hai ngày. Trên đây tôi chỉ kể một số vấn đề thật đặc biệt cần thiết cho cuộc vượt thoát thành công, và cho cả sự an nguy của chính mạng sống bản thân chúng tôi.
Cho đến lúc đó tôi mới kịp nhìn lại bao lần thất bại trước đây của tôi, của vợ tôi và của tất các người tôi quen biết mới thấy. Quả thật chúng tôi đã nhắm mắt làm liều một cách thật ngây thơ, khờ khạo…
Cuối tháng 8 năm 1988 tôi dự định giã biệt quê hương, nên xin xuất bến vào ngày 27 – Nhưng không được nhà cầm quyền địa phương cho phép, họ bảo: nghỉ ăn lễ độc lập xong hẳn đi. Ai cũng nhắm vào dịp lễ tết, các cơ quan, cán bộ say sưa, lơ là để thừa cơ trốn chạy. Thực ra tôi cũng nhắm vào dịp 2 tháng 9. Cuối cùng đành chọn vào đêm 7 rạng ngày 8 thàng 9, một đêm tối trời…
Cuộc “Hành Quân Đêm” của chúng tôi xuất phát vô cùng thuận lợi – diễn ra từng bước đúng như tính toán trước. Thuyền của tôi chiều ngày 7 tháng 9 vẫn về cửa bến sông Rinh như thường lệ, vẫn vui đùa ăn nhậu như mọi ngày, nhưng mọi thứ cần thiết cho chuyến đi vẫn được kín đáo, sắp xếp, kiểm soát…Sáng hôm sau, thuyền của tôi vẫn ra khơi ngay từ đợt đầu tiên trong lúc trời còn chưa sáng rõ. Từ ngoài xa, ngồi trong khoang tôi dùng ống nhòm kín đáo quan sát “Những hoạt động tại điểm” trong khi thuyền thả cào chầm chậm di chuyển vào cồn cạn…Khi nhận được tín hiệu của nhóm taxi đã đầy đủ và sẵn sàng, thuyền liền gác cào, nhanh chóng áp sát và quay ngang để án ngữ tầm nhìn từ biển vào. Chỉ trong vòng 15 phút vội vàng, căng thẳng, nhưng rất trật tự…Tất cả số lượng dầu, lương thực, và 18 người lớn nhỏ đã nằm gọn ghẽ trong khoang thuyền, và nhóm taxi cũng lần lượt phân tán khuất sâu trong các con lạch.
Tôi thở ra một hơi thật dài nhẹ nhỏm…trong lúc con thuyền tiến ra xa…xa..xa mãi.
Vào lúc 7 giờ sáng hôm đó trong một bãi kios tại bãi Vũng Tàu, gần đồn biên phòng, mũi hải đăng với tờ giấy vừa xuất viện (nằm bệnh viện ) trong túi, và cuốn “Bố Già” mới phát hành tại Sài Gòn trên tay, ông già vợ tôi ung dung ngồi trước một cái phin cà phê thong thả nhỏ giọt. Người ta tưởng ông đang say sưa với cuốn truyện, thỉnh thoảng lật từng trang… Nhưng thực ra ông đang để hết tinh thần vào thính giác và thị giác quan sát ngoài biển, và nhất là những động tĩnh của đồn biên phòng…
Mười giờ ông vui vẻ ra về…Tìm gặp Cang để bác cháu hàn huyên. Sau này Cang còn có dịp tìm ông vài lần để cám ơn ông đã giới thiệu cho anh vài người bạn của tôi tại bãi sông quận 8.
Chúng tôi đã vượt qua Côn Đảo an toàn, đã gặp đường Hàng Hải Quốc Tế và vẫn đang theo con đường đã chấm tọa độ đi tới Philippine thì khoảng 11 giờ sáng hôm sau , trong bản tin thời tiết loan báo một trận bão xuất phát từ ngoài biển Trung Hoa Lục Địa tiến về hướng tây nam. Nếu ít giờ sau bão tràn tới mà thuyền của tôi vẫn còn giữ hướng đang đi, thì sóng gió gần như đập thẳng vào hông thuyền “Gặp điều cấm kỵ đây rồi!!!”…Tối quyết định tức khắc phải đổi hướng: bẻ góc cho thuyền đi xéo dần dần về gặp lại (và đi theo) đường hàng hải quốc tế để hy vọng:
a ) – Lúc đó gió bão sẽ đẩy thuyền đi nhanh hơn
b ) – Tránh tình trạng sóng đập vào hông thuyền (nếu theo hải trình cũ )
c ) – Trên đường hàng hải quốc tế có hy vọng nhận được sự tiếp cứu của các tầu lớn.
Chiều hôm ấy quả nhiên bão đã tràn tới sau lưng, đẩy thuyền chúng tôi chạy như tên bắn…Tiếp theo tức thì, sóng biển dềnh lên cuồn cuộn…Thuyền bị nâng lên thật cao…cao ngất….rồi từ độ cao chót vót ấy…lao ào….xuống thung lũng đen ngòm phía dưới khoang…Riêng tôi, lúc này chỉ mong sao cho máy thuyền đứng chết…Bóng tối cũng mau chóng trùm kín, sấm chớp giăng giăng ngang dọc…chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh sáng lửa bập bùng xa xa, hình như từ một dàn khoan nào đó. Khoảng nửa đêm, sóng gió quay cuồng, mưa đổ như trút…sấm chớp liên hồi…Dĩ nhiên thuyền của chúng tôi phải đổi hướng xoay chiều theo sóng gió…Suốt ba ngày đêm bị vùi dập, thuyền của chúng tôi trôi tới trôi lui, hình như vẫn đứng nguyên tại vị trí cũ, đốm lửa dàn khoan vẫn lúc thấy lúc không. Có vài lần chúng tôi đã toan tính thử cho thuyền sáp gần về phía ánh lửa dàn khoan…nhưng không thể được…12 giờ trưa ngày thứ 55 kể từ khi chúng tôi rời bỏ quê hương, và là ngày thứ 3 khi gặp bão gió, gió mới dịu lại! Từ́ lúc ra đến đường Hàng Hải Quốc Tế, chúng tôi đã gặp không dưới 10 chiếc tầu dân sự to lớn, mang cờ hiệu của nhiều quốc gia ngược xuôi, chúng tôi đều ra dấu cứu vớt, nhưng họ cố ý làm ngơ. Khoảng 4 giờ chiều, đột nhiên tôi nghe Lương La lên;
– Cái tàu đằng sau hình như đã dừng lại!
Tôi nhìn lại, quả thật một ngọn núi sắt sừng sững hiện ra trước mặt tôi:
– Chúng ta được cứu rồi!!!
Suốt ba ngày đêm bị bão táp vúi rập, trừ những đứa trẻ vẫn ăn ngủ, bú sữa bình thường, còn hầu hết hành khách của tôi đều mệt mỏi, say sóng, không ăn và nằm bẹp dí…Bây giờ mới chỉ nghe được tiếng “Có tầu cứu” là tất cả đều nhỏm dậy và leo lên boong. Các chị, các cô bế ngay mấy đứa trẻ, nâng cao để những người trên tàu trông thấy. Tôi thấy thủy thủ trên tầu ra dấu cho thuyền tôi tới gần đống thời họ thả thang sắt xuống…
Sóng lúc đó vẫn còn khá lớn, con thuyền dềnh lên thụt xuống, khi vừa áp sát đã đụng nhẹ vào thành tầu kêu lên răng rắc như muốn bể toang. Cho thuyền lui giật ra tôi cố ghìm giữ cho thuyền chỉ tiếp xúc với tàu bằng mũi. Trước đó chúng tôi đã căng sẵn một dây thừng lớn từ khoang ra đến cọc mũi làm chỗ vin và móc dây an toàn. Nhờ đó sự di chuyển bây giờ tương đối an toàn. Theo lệnh từ trên tàu đưa xuống: Người ít tuổi sẽ ưu tiên lên tàu trước. Do đó, con gái tôi mới 7 tháng tuổi được cậu Lương và chú Bình, người bế kẻ dìu, thận trọng từ khoang thuyền ra mũi, đợi đúng lúc thuyền dềnh lên mới chuyền cháu cho hai thủy thủ, đứng sẵn ở bậc cuối thang sắt, cùng đưa tay đỡ lấy cháu…Tôi nghe một loạt pháo tay rộ lên…của những người trên tàu đón mừng cháu…mà chảy nước mắt dài…Tôi khóc..Quả thật cho đến lúc ấy tôi mới khóc…khóc, vì…mừng vui!!! Đến lượt thằng con trai của tôi gần 4 tuổi, vùng vằng không chịu lên tàu, khóc lóc la hoảng đòi về nhà bà ngoại. Người thứ ba là một cháu gái tên Thúy (hiện là sinh viên của đại học UCL). Lương và Bình cố móc dây an toàn lần lượt dẫn từng người từ khoang ra mũi để rời thuyền. Người khách cuối cùng là bà Chín, cũng là người lớn tuổi nhất trong chuyến đi, run rẩy sợ hãi vì thuyền dềnh lên thụt xuống, ra đến mũi sắp được kéo lên thang…loạng quạng sao đó, té lăn xuống biển…Nhanh như vượn Lương phóng xuống theo túm được, Bình cũng lao đến tiếp cứu, vớt lên được. Lên tầu bà Chín phải nằm bệnh viện săn sóc 5 ngày mới khỏi (Ông bà Chín hiện định cư tại Massachussets). Lệnh thuyền trưởng yêu cầu chúng tôi đem lên boong tất cả các dụng cụ hải hành, cũng như tất cả các loại lương thực có trên thuyền.
Sau Lương và Bình, tôi là người cuối cùng, tắt máy, rời thuyền với một tâm trạng bâng khuâng, dào dạt. Đặt chân lên boong tầu, lúc đó là 5 giờ 30 chiều ngày 12 tháng 9 năm 1988. Tôi nhìn xuốt lượt 21 người “cùng hội cùng thuyền” với tôi, Bà Chín, cô Lan và cháu gái 5 tuổi tên Thúy, Tôi chỉ gặp từ lúc lên thuyền (vì là người của Cang đưa taxi, anh đã năn nỉ vợ tôi cho đi để anh có thêm sở hụi ), Anh Bình là bạn hàng xóm, còn lại đều là thân thuộc trong gia đình chúng tôi (Sau này lúc Lương lập gia đình, ông bà Chín nhân dịp này tặng Lương một kỷ vật trân quí. Cô Lan đã nhận bố mẹ vợ tôi làm bố mẹ nuôi và cô đã kết hôn với anh Bình. Chúng tôi đều được định cư tại Mỹ, và hầu hết ở Cali. Chúng tôi thướng đi lại gặp nhau như một nhóm gọi là “Nhóm Golar Freeze”, lấy tên của con tàu đã cứu vớt chúng tôi trên Biển Đông.
Khi tôi đến chào và trình diện ông thuyền trưởng, ông tỏ ra rất lịch sự và ân cần, ông cho tôi biết ông là người Tây Đức, ông rất thông cảm chẳng những với thuyền nhân, mà còn với tất cả mọi người ở Miền Nam Việt Nam nữa. Ông nói ông đã nhìn thấy thuyền của chúng tôi từ xa 9 – 10 cây số. Từ đằng sau ông quan sát thuyền của chúng tôi rất lâu. Vừa rồi ông đã xem xét cái Mâm Nhôm, một dụng cụ thô sơ nhất của người đi biển, rồi đến cái hải bàn cổ quái “không có kim” (nó đã bị bão vùi dập lăn lóc, nên kim đã gẫy và tấm bản đố Hải Hành vẽ bằng tay (Thực ra là can bằng tay theo kiểu học trò ), ông hoàn toàn kinh ngạc và hỏi tôi làm cách nào dẫn thuyền đi đúng hướng, đúng đường và an toàn qua cơn bão vừa rồi. Tôi đã trình bày cho ông rõ là: “Chúng tôi đã được một Trung Úy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa huấn luyện trong một khóa đặc biệt…thật kỹ…và lâu đến cả…hai ngày lận!!!”
Lúc đó tất cả chúng tôi đã được an toàn trên con tầu Golar–Freeze, một tầu chở dầu, trọng tải 80 ngàn tấn của một đại công ty hỗn hợp Nhật Bản – Phần Lan – Anh Quốc. Chúng tôi được từ cõi chết trở về!
Anh chị em chúng tôi, từ trên boong, nhìn xuống con thuyền bé bỏng, thân thương, hiện không còn người lái đang quay cuồng trên sóng đại dương, va đập vào hông tàu bể vỡ…và từ từ chìm xuống. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng im lặng bùi ngùi, cúi đầu như mặc niệm.
Sóng nước đã hoàn toan phủ kín nó…Như phủ kín cả một thời trai trẻ, thanh xuân của thế hệ chúng tôi!
Lake Forest,
Ngày trọng đông năm Nhâm Ngọ
Tony Dương


THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ

Mỹ khuyến cáo Nga chớ có lên giọng khiêu khích




Bản đồ khu vực Crimea, Ukraine.
Bản đồ khu vực Crimea, Ukraine.
Các quan chức quốc phòng Hoa Kỳ yêu cầu Nga hạ bớt giọng điệu gay gắt với Ukraine, khuyến cáo rằng Moscow có thể thổi bùng tình hình vốn đã căng thẳng và mong manh.
‘Chúng tôi hết sức quan ngại,’ phó phát ngôn nhân của Ngũ giác đài, Gordon Trowbridge, ngày 12/8 cho biết đồng thời nhấn mạnh rằng Nga nên nỗ lực hơn nữa để ngăn leo thang căng thẳng.
‘Nga đang tiếp diễn giọng điệu khiêu khích vốn đã khiến cho nhiều người có ấn tượng rằng có chuyện lớn đang xảy ra ở đó,’ ông nói thêm.

Ông Trowbridge cũng cho biết Hoa Kỳ không thấy bất kỳ bằng chứng nào ủng hộ cho tố cáo của Nga rằng Ukraine đang tìm cách thực hiện các cuộc tấn công khủng bố, đồng thời dẫn ra điều mà ông gọi là thành tích của Nga ‘thường xuyên đưa ra những tố cáo sai lệch nhắm vào Ukraine.’
Trước đó trong ngày 12/8 ở Moscow, Thủ tướng Dmitry Medvedev tuyên bố Nga có thể cắt đứt quan hệ ngoại giao với Ukraine vì các quan ngại an ninh gần đây.
‘Nếu không có cách nào khác để thay đổi tình hình, tổng thống Vladimir Putin có thể sẽ thực hiện việc này,’ truyền thông nhà nước dẫn lời ông Medvedev.

Quan hệ ngoại giao giữa Moscow và Kyiv vẫn còn sau khi Nga sáp nhập Crimea, nơi từng là lãnh thổ của Ukraine mà cư dân đã bỏ phiếu chọn ly khai hồi năm 2014. Quan hệ đó vẫn còn khi Nga, sau đó, đã hỗ trợ vật chất cho các phần tử nổi dậy ly khai ở miền đông Ukraine tự tuyên bố độc lập khỏi Kyiv.

Nga đã triển khai một hệ thống phi đạn phòng không tiên tiến tại Crimea, quân đội loan báo hôm 12/8. Hãng thông tấn Pháp cho hay hệ thống S400 chống máy bay có khả năng lần theo dấu vết tới 300 mục tiêu và cùng lúc có thể bắn hạ gần ba chục mục tiêu.
Các quan chức quốc phòng Hoa Kỳ cho biết họ đang theo dõi tình hình.
Binh sĩ Ukraine tuần này được đặt trong tình trạng báo động cao khi căng thẳng với Nga gia tăng dọc theo biên giới Crimea và ở miền đông Ukraine.
http://www.voatiengviet.com/a/nga-doa-cat-quan-he-ngoai-giao-voi-ukraine/3462446.html

Báo TQ: VN phạm ‘sai lầm khủng khiếp’ khi triển khai vũ khí ở Biển Đông

1:26
Truyền thông Bắc Kinh hôm thứ Năm lên tiếng cảnh báo Việt Nam về động thái triển khai bệ phóng rocket di động ở Biển Đông là “sai lầm khủng khiếp” và nhắc nhở Hà Nội rằng chính Trung Quốc là nước đã thắng khi hai nước giao chiến lần trước.
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo, tiếng nói chính thống của nhà nước Trung Quốc, viết “Nếu việc triển khai mới nhất của Việt Nam là nhắm vào Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, như Reuters tường thuật ngày hôm qua, thì chúng tôi hy vọng Việt Nam sẽ ghi nhớ và rút ra một số bài học từ lịch sử”.
Hãng tin Reuters trước đó dẫn lời các giới chức phương Tây cho biết Việt Nam đã triển khai các bệ phóng rocket có khả năng tấn công vào các đường băng và cơ sở quân sự của Trung Quốc ở các đảo nhân tạo lân cận.
Trong khi Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng nói tin này là “không chính xác”, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh khẳng định với Reuters hồi tháng 6 rằng việc di chuyển bất kỳ loại vũ khí nào đến “bất kỳ khu vực nào vào bất kỳ thời điểm nào trong vùng lãnh thổ có chủ quyền của chúng tôi là quyền hợp pháp của chúng tôi”.
Cũng trong bài báo hôm thứ Năm, Hoàn Cầu Thời Báo nói việc triển khai vũ khí của Việt Nam chỉ làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực và “việc tăng cường cho các đảo với các bệ phóng rocket, nếu được chứng minh là đúng, sẽ chỉ chứng tỏ quyết tâm của Việt Nam là tăng cường triển khai quân sự”.
Tờ báo của nhà nước Trung Quốc cũng cảnh báo các nước nằm trong khu vực có tranh chấp, bao gồm Việt Nam, là hãy “cảnh giác” với các chiến thuật của phương Tây nhằm tiếp tục thổi bùng căng thẳng trong khu vực.
Theo tờ China Daily, các giới chức Trung Quốc nói Việt Nam đã “chiếm phi pháp” 29 trong khoảng 50 hòn đảo và bãi đá trong khu vực Biển Đông. Tờ báo này nói Việt Nam đã thực hiện các công trình xây dựng trên khoảng 20 trong số các đảo và bãi đá trên, và việc xây dựng gia tăng mạnh trong 2 năm gần đây.
Ngoài Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền chồng chéo trên các khu vực ở Biển Đông.
Theo The Economic Times, Firstpost.com
 http://www.voatiengviet.com/a/bao-tq-viet-nam-pham-sai-lam-khung-khiep-khi-trien-khai-vu-khi-o-bien-dong/3461606.html

Nhật tăng tùy viên quân sự tại VN và Philippines để ‘cảnh báo’ TQ

Chính phủ Nhật Bản có kế hoạch tăng số lượng các tùy viên quốc phòng công tác ở Việt Nam và Philippines trong năm tài khóa 2017 nhằm “cảnh báo” Trung Quốc, tin này được đưa ra hôm thứ Năm giữa lúc căng thẳng ở Biển Đông có chiều hướng gia tăng sau sự kiện Việt Nam bị cho là đã đưa hệ thống bệ phóng rocket ra một số hòn đảo trong khu vực có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông.
Nguồn tin được tờ Japan Times dẫn lời nói Nhật Bản hy vọng sẽ thúc đẩy hợp tác quốc phòng hơn nữa với hai quốc gia Đông Nam Á vào lúc Trung Quốc phô trương sức mạnh quân sự ở Biển Hoa Đông và Biển Đông.
Cũng theo nguồn tin trên, việc gia tăng số tùy viên quốc phòng ở Việt Nam và Philippines là nhằm mục đích tạo điều kiện hợp tác quốc phòng với quân đội 2 nước thông qua việc chia sẻ thông tin cũng như tăng cường thu thập thông tin về các hoạt động của quân đội Trung Quốc. Nhưng trên hết, việc tăng cường này có mục đích nhằm “cảnh báo” Trung Quốc về các hành động khiêu khích ở vùng biển quanh quần đảo Senkaku của Nhật Bản mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư.

Gần đây, Nhật Bản đã liên tục tăng cường hợp tác quốc phòng với Việt Nam và Philippines. Hồi tháng 4, tàu khu trục của Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản đã đến cảng quân sự chiến lược Cam Ranh lần đầu tiên. Vào tháng 5, Nhật đồng ý cho Philippines thuê các máy bay huấn luyện TC-90 và hải quân Philippines dự kiến sẽ dùng các máy bay này để tuần tra và giám sát Biển Đông.
Tính đến ngày 1/4, Nhật Bản có tổng cộng 61 tùy viên quốc phòng đồn trú tại các sứ quán lớn và các tổ chức quốc tế. Hiện Nhật Bản đang có 1 tùy viên quốc phòng ở Việt Nam và Philippines. Nguồn tin vừa kể cho biết chính phủ đặt mục tiêu tăng số lượng lên 2 tùy viên ở mỗi nước, bắt đầu từ năm tài khóa 2017.
Theo Sputnik, The Japan Times
 http://www.voatiengviet.com/a/nhat-tang-tuy-vien-quan-su-o-vn-va-philippines-de-canh-bao-trung-quoc/3461774.html

Việt Nam bố trí bệ phóng tên lửa di động mới tại một số đảo ở Trường Sa

RFA
2016-08-10
2063.jpg
Đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa.
AFP VIDEO


Việt Nam đã kín đáo cho bố trí những bệ phóng tên lửa di động mới tại một số đảo đang quản lý tại Trường Sa. Những bệ phóng tên lửa này có khả năng nhắm đến đường băng và các cơ sở quân sự của Trung Quốc trong khu vực Biển Đông, một tuyến đường biển quan trọng trên thế giới.
Hãng thông tấn Reuters hôm nay (10/8) loan tin trích dẫn phát biểu của các giới chức ngoại giao và quân sự Phương Tây như vừa nêu. Theo đó nguồn tin tình báo cho thấy Hà Nội đã cho vận chuyển những bệ phóng từ đất liền ra 5 căn cứ ở Trường Sa trong những tháng gần đây.
Theo ba nguồn tin mà Reuters có thì những bệ phóng được giấu để không thám không phát hiện ra và chưa lắp đặt vũ khí; tuy nhiên chúng có thể hoạt động trong vòng hai hay ba ngày sau khi được trang bị khí tài hỏa tiễn.
Biện pháp vừa nói của Việt Nam được nhận định nhằm đối phó với hoạt động cải tạo, xây dựng của Trung Quốc tại 7 đảo đá ở Trường Sa.
Những cơ sở quân sự được gấp rút dựng lên đó của Trung Quốc có thể nhắm đến miền nam và các đảo của Việt Nam.
Động thái này của Hà Nội cũng được nói sẽ gây căng thẳng trong tình hình tranh chấp hiện nay.
 http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/vn-moves-new-rocket-launchers-into-disputed-scs-08102016083607.html

Bộ Quốc phòng Mỹ nói gì về tin ‘giàn pháo di động’ của VN?

  • VOA Tiếng Việt
  • Lầu Năm Góc cho biết rằng Hoa Kỳ “đã nắm được các tin tức về việc Việt Nam đã triển khai các hệ thống tên lửa tầm ngắn trên một số tiền đồn ở Trường Sa”.
    Reuters hôm 10/8 dẫn lời các nguồn tin nói rằng Hà Nội đã, theo lời hãng này, “bí mật” đưa các giàn rocket di động mới ra “năm căn cứ ở Trường Sa trong những tháng gần đây”.
    Cùng ngày, trả lời VOA Việt Ngữ, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ cũng kêu gọi “tất cả các bên tuyên bố chủ quyền ở biển Đông tránh các hành động gây căng thẳng, tiến hành các bước đi thiết thực nhằm xây dựng lòng tin và gia tăng nỗ lực nhằm tìm ra các giải pháp hòa bình, ngoại giao để [giải quyết] các tranh chấp”.
    Trong khi đó, tất cả các báo lớn của Việt Nam đều không đề cập tới bản tin độc quyền của Reuters, và dường như, chỉ duy nhất có tờ Giáo dục Việt Nam viết về điều tờ báo này nói là “quyền phòng thủ chính đáng của Việt Nam ở Trường Sa”.
    Tờ báo thuộc Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam viết thêm rằng “nếu thiếu những tiếng nói giải thích cho rõ có thể dẫn đến những băn khoăn, lo lắng trong dư luận Việt Nam về quyết tâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”.
    Trong bản tin của mình, Reuters trích tuyên bố ngắn gọn của Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng thông tin mà hãng này thu thập được “không chính xác”, trong khi trả lời VOA Việt Ngữ, một quan chức Bộ Quốc phòng Việt Nam nói rằng “không có chuyện đấy”.
Tính tới tối 11/8, giờ Hà Nội, cả trang web của Bộ Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc đều không đăng tải bất kỳ tuyên bố nào về tin tức được cho là “gây căng thẳng” cho quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh. Tiến sỹ Vũ Quang Việt, một nhà nghiên cứu về biển Đông, nhận định với VOA Việt Ngữ rằng dù Việt Nam bác bỏ tin triển khai giàn phóng tên lửa, đó cũng là lời “cảnh báo” cho Trung Quốc. Cựu quan chức của Liên Hiệp Quốc này nói thêm: “Họ làm như vậy để cho Trung Quốc biết rằng họ sẵn sàng đề phòng. Nếu mà Trung Quốc muốn chiếm thêm chỗ này, chỗ kia, thì sẽ bị phản ứng. Việt Nam bây giờ ở thế bắt buộc phải chứng tỏ mình phòng bị, chứ không phải mình ở cái thế có thể tấn công được. Nếu tấn công, Trung Quốc sẽ lạm dụng cái đó để nó làm tới nữa. Việt Nam chỉ có phản ứng khi nào cần thiết thôi”. Ông Việt nhận xét tiếp rằng, sau phán quyết của Tòa Trọng tài Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc giờ “mất thế chính nghĩa”, và tình hình ở biển Đông sẽ còn “căng thẳng” trong thời gian tới. Trong bài báo độc quyền, Reuters trích dẫn tuyên bố mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc fax tới hãng này hôm 11/8, tái khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với Trường Sa và các vùng biển kế cận. Bắc Kinh còn được trích lời lên tiếng phản đối việc “chiếm đóng trái phép các đảo và bãi đá của Trung Quốc” và “triển khai quân sự trái phép” tới đó. http://www.voatiengviet.com/a/bo-quoc-phong-my-noi-gi-ve-tin-gian-phao-di-dong-cua-viet-nam/3460068.html

Vũ khí Việt Nam ở Trường Sa nguy hại cho Trung Quốc hơn tàu Mỹ


media 
Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) vào tháng 02/2016 xác nhận Israel đã giao cho Việt Nam 20 quả tên lửa đối đất EXTRA(@defence-blog.com)
Theo tiết lộ của hãng tin Anh Reuters ngày 10/08/2016, Việt Nam đã âm thầm đưa các gián phóng phi đạn và tên lửa có sức công phá mạnh ra năm thực thể mà Việt Nam kiểm soát trong khu vực quần đảo Trường Sa. Sau đây là nhận định của giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông tại Học Viện Quốc Phòng Úc, trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho RFI Tiếng Việt
Theo giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông tại Học Viện Quốc Phòng Úc cho rằng hệ thống vũ khí mới này của Việt Nam là một mối đe dọa tiềm tàng lớn cho các sân bay và cơ sở quân sự mà Trung Quốc cho xây dựng trên các đảo nhân tạo họ vừa bồi đắp tại Trường Sa. Nguy cơ đối với Trung Quốc từ vũ khí của Việt Nam còn lớn hơn cả mối đe dọa đến từ tàu Mỹ.
RFI : Giáo sư nhận định sao về động thái mới này của Việt Nam ?
Thayer : Nếu thông tin (về việc Việt Nam đưa giàn pháo mới ra Trường Sa) là xác thực, thì đó sẽ là hành động vi phạm quan trọng đầu tiên của Việt Nam đối với bản Tuyên Bố về Ứng Xử của các bên ở Biển Đông ký năm 2002, yêu cầu tự kiềm chế để không làm phức tạp tình hình hoặc leo thang tranh chấp.
Cần lưu ý rằng Việt Nam đã phủ nhận việc bố trí giàn phóng tên lửa trên các thực thể mà họ kiểm soát. Bản tin của Reuters cũng ghi nhận rằng các bệ phóng không được trang bị đầu đạn.

Động thái của Việt Nam mang dấu hiệu của một phản ứng hoàn toàn tự vệ để đối phó với việc Trung Quốc củng cố cơ sở hạ tầng trên các đảo nhân tạo trong tay họ, trong đó có việc xây dựng nhiều nhà chứa máy bay có khả năng tiếp nhận chiến đấu cơ đa năng Su-30, oanh tạc cơ, phi cơ tiếp tế nhiên liệu và máy bay cảnh báo sớm và điều khiển.
RFI : Mỹ và Trung Quốc có thể phản ứng ra sao ?
Thayer : Hoa Kỳ sẽ nhắc lại chính sách thường xuyên được tuyên bố là các bên tranh chấp không nên quân sự hóa thêm các thực thể địa lý trong tay mình ở vùng quần đảo Trường Sa, và nên tham gia vào việc thực hiện các biên pháp xây dựng lòng tin. Mỹ chưa chính thức xác nhận thông tin của Reuters.
Trung Quốc cũng đã tuyên bố rằng các nước tranh chấp khác nên có những bước đi mang tính xây dựng. Trung Quốc cũng đã gắn tiến trình quân sự hóa (Biển Đông) của họ với mức độ đe dọa mà họ phải đối mặt. Điều đó nhắm vào những hành động của Hoa Kỳ.
Động thái (mới) của Việt Nam đã phức tạp hóa kế hoạch quốc phòng của Trung Quốc. Ba sân bay mới của Bắc Kinh (trên Đá Chữ Thập, Đá Xu Bi, Đá Vành Khăn) đã trở thành mục tiêu dễ bị hệ thống pháo EXTRA của Việt Nam gây tổn hại. Lý do là pháo Việt Nam là một mối đe dọa thường trực, trong lúc các chuyến tuần tra của Hải Quân Mỹ chỉ thoáng qua mà thôi.
RFI : Tình hình Biển Đông có thể diễn biến ra sao ?
Thayer : Diễn biến hiện nay chứng minh cho nhận định rằng các hành động của Trung Quốc đã kích động một phản ứng ngược lại, hoặc là điều mà giới phân tích an ninh gọi một chu kỳ « động lực-phản động lực ».
Tình hình ở quần đảo Trường Sa sẽ căng thẳng thêm lên nếu Trung Quốc đột ngột triển khai máy bay quân sự trên ba đường băng mà họ đã xây dựng một khi các nhà chứa máy bay được hoàn thành.
Trung Quốc sẽ không có khả năng tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông và buộc nước khác tuân thủ ngày nào mà họ chưa xây dựng đủ các bể chứa nhiên liệu, và các cơ sở bảo trì và sửa chữa rộng lớn.
Tuy nhiên, Trung Quốc có thể triển khai một phi đội máy bay chiến đấu và oanh tạc cơ, hoạt động xoay vòng trong thời gian ngắn, làm căng thẳng gia tăng trong khu vực. Điều này sẽ có tính cách hù dọa các nước ven biển.

RFI : Hệ thống tên lửa EXTRA mà Việt Nam bố trí tại Trường Sa là gì ?
Thayer : Thông tin đã được công khai là vào năm 2014, Việt Nam đã mua 10 giàn phóng phi đạn dẫn đường và tên lửa địa-đối địa EXTRA của Israel. Hình ảnh các tên lửa này đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam, và phô trương là « tên lửa chống xâm lược ».
EXTRA là tên tắt của Extended Range Artillery (pháo với tầm bắn mở rộng), và có thể dùng trong các cuộc tấn công chuẩn xác nhắm vào tàu chiến hay các cơ sở trên đất liền trong một bán kính từ 20 đến 150 km.
Tên lửa này có độ chính xác cao, và sai số so với đích nhắm chỉ khoảng mười mét. Tên lửa có thể mang một đầu đạn thuốc nổ cực mạnh, hay nhiều quả bom nhỏ. Đầu đạn thuốc nổ có thể gây tổn hại cho một tàu chiến, hoặc tạo nên một hố lớn trên một đường băng, còn bom nhỏ có thể gây thương vong hàng loạt trong một khu vực nhất định, phá hủy máy bay nằm đưới đất, các trung tâm chỉ huy và thông tin liên lạc, và các cơ sở hậu cần và cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.
Từng có tin về việc Việt Nam tăng cường vũ khí ra Trường Sa
Giới quan sát hiện đang tìm hiểu xem Việt Nam có thể bố trí các vũ khí mới ở đâu tại Trường Sa. Dẫu sao thì đây không phải là lần đầu tiên có tin là Việt Nam tăng cường vũ khí hiện đại ra Trường Sa.
Cuối năm 2014, chính quyền Đài Loan từng báo động về việc Việt Nam « tăng cường sự hiện diện quân sự với các vũ khí tinh vi trên đảo Sơn Ca (Sandy Cay), cách đảo Ba Bình chỉ 11 km về phía Đông ». Nguồn tin trên cũng cho rằng Việt Nam đã triển khai một số lượng không xác định tên lửa phòng không vác vai mới và mở rộng địa bàn đóng quân trên đảo Sơn Ca trong năm 2014.
Tháng Ba năm 2015, một dân biểu diều hâu Đài Loan Lâm Úc Phương (Lin Yu-fang) thuộc Quốc Dân Đảng, cũng khẳng định rằng có dấu hiệu là Chính quyền Việt Nam tăng cường lực lượng pháo binh trên cả hai đảo Sơn Ca và Nam Yết (Namayit), cách Ba Bình 22km.
  http://vi.rfi.fr/viet-nam/20160810-vu-khi-viet-nam-o-truong-sa-nguy-hai-cho-trung-quoc-hon-tau-my
 

Bị Đảng giám sát, Tập Cận Bình không thể nhượng bộ Mỹ


media 
Chủ tịch Tập Cận Bình và tổng thống Barack Obama tại một diễn đàn Liên Hiệp Quốc ngày 28/09/2015.REUTERS/Andrew Kelly
Lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ có cuộc gặp thượng đỉnh trong tháng 09/2016. Tổng thống Barack Obama cho biết có ý định đề cập đến các căng thẳng trên biển tại hai vùng có tranh chấp : Biển Hoa Đông và Biển Đông. Nhưng theo giới chuyên gia, Tập Cận Bình không thể khuất phục trước các áp lực của Hoa Kỳ.
Cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Trung sẽ diễn ra bên lề hội nghị kinh tế G-20, tổ chức trong hai ngày 4-5/09/2016, tại Hàng Châu, Trung Quốc. Tuy nhiên, theo quan điểm của tờ báo Nhật Asia Nikkei, tổng thống Obama khó có thể đạt được điều gì từ đồng nhiệm Trung Quốc trên cả hai hồ sơ Biển Đông và biển Hoa Đông.
Bởi một lẽ rất đơn giản, đại hội đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ diễn ra vào mùa thu năm 2017. Theo thông lệ, từ 5 đến 7 ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính Trị, những vị trí chóp bu trong hàng ngũ lãnh đạo đảng Cộng sản, sẽ được bầu mới vào thời điểm này.
Từ đây cho đến kỳ đại hội đảng tới, duy trì được quyền lực là một việc hệ trọng đối với ông Tập Cận Bình. Chủ tịch Trung Quốc cần phải lèo lái tiến trình này để có thể nắm tiếp quyền lãnh đạo đảng và đất nước cho nhiệm kỳ thứ hai.
Thế nhưng, phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực cũng như việc Washington quyết định triển khai hệ thống lá chắn tên lửa THAAD tại Hàn Quốc đã khiến đảng Cộng sản Trung Quốc tỏ ra nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của ông Tập Cận Bình. Nhiều nhà quan sát nhận xét, trong tình hình này, ông Tập Cận Bình không cho phép mình nhún nhường trước nước khác.

Do đó, trong cuộc gặp với đồng nhiệm Mỹ sắp tới đây, chủ tịch Trung Quốc hy vọng có thể nhắc lại một đề xuất trung dung : đó là một « mô hình quan hệ mới giữa các cường quốc ». Một tầm nhìn mới về thế giới ở đó Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng hợp tác đối phó các hồ sơ quốc tế mà không « dẫm đạp » lợi ích lên nhau. Trong trường hợp của Bắc Kinh hiện nay, điều đó còn bao gồm cả việc giải quyết tranh chấp tại Biển Đông giữa các nước trong khu vực.
Một đề xuất đương nhiên đã bị Hoa Kỳ khước từ. Kể từ mùa thu năm rồi, chính quyền Obama đã đáp trả sự hiện diện của hải quân Trung Quốc bằng việc gởi tầu chiến đến vùng Biển Đông nhân danh « tự do lưu thông hàng hải ». Tập Cận Bình đã bày tỏ sự bất bình trước việc Hoa Kỳ gia tăng áp lực quân sự trong khu vực.
Có thể nói là quan hệ Mỹ - Trung đã xuống đến mức thấp nhất kể từ khi đôi bên nối lại quan hệ bang giao. Nhất là kể từ khi Washington và Seoul quyết định triển khai hệ thống lá chắn tên lửa THAAD tại Hàn Quốc.
Ngoài hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên, những hồ sơ quan trọng khác như việc biến đổi khí hậu, thương thuyết hạt nhân Iran, các chuyên gia nhìn nhận đều phải có sự tham gia của Bắc Kinh và do vậy Trung Quốc muốn tận dụng khai thác để mặc cả nhằm bảo vệ các lợi ích cốt lõi của mình.
Nếu Tập Cận Bình vẫn tiếp tục đường lối cứng rắn này với Hoa Kỳ và các nước láng giềng cho đến ngày khai mạc G-20, thì ông có thể sẽ gặp nhiều khó khăn. Một số nguồn ngoại giao cho rằng từ đây đến kỳ họp hội nghị G-20, nguyên thủ Trung Quốc có lẽ cố gắng tìm kiếm một lập trường hòa giải nào đó.
Tuy nhiên, theo một học giả châu Á am tường về chính sách ngoại giao Trung Quốc, một khi hội nghị kết thúc, Tập Cận Bình sẽ quay trở lại với đường lối cứng rắn của mình. Và Trung Quốc lại tiếp tục leo thang khiêu khích Nhật Bản trên biển Hoa Đông, theo như cảnh báo của một số nhà quan sát.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20160812-duoi-su-giam-sat-cua-quan-doi-tap-can-binh-khong-the-nhuong-bo-cac-ap-luc-cua-hoa-ky

 

Trung Quốc đang trở thành một nhà nước luật rừng


media 
Nhân viên an ninh lập hàng rào chặn báo chí tiếp cận cuộc hội đàm giữa cố vấn an ninh Mỹ Susan Rice và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, 25/07/2016.REUTERS/How Hwee Young/Pool
Xã luận của Le Point tuần thứ hai tháng 8/2016, với tựa đề « Trung Quốc, phường thảo khấu », nhận định: « Siêu cường kinh tế giờ đây chỉ còn tuân theo các quy tắc của riêng mình. Đến mức sẵn sàng chống lại phần còn lại của thế giới ».
Bài xã luận của Le Point mô tả một loạt dấu hiệu cho thấy chế độ Trung Quốc hiện hành dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình đang ngày càng trở nên thù địch với thể chế pháp quyền. Cụ thể là tấn công vào giới bảo vệ nhân quyền, vào giới doanh nghiệp, vào nền tự trị của đặc khu Hồng Kông… Gần đây nhất, về mặt quốc tế, Trung Quốc đã « phản ứng một cách hung hăng » chống lại phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực về vụ kiện Biển Đông của Philippines (ngày 12/07), với đe dọa đơn phương lập vùng nhận dạng phòng không và tuyên bố tập trận với Nga vào tháng tới tại Biển Đông.
Về mặt đối nội, « thái độ hung hăng của Bắc Kinh tương ứng với tình trạng suy yếu của đảng Cộng Sản trong bối cảnh kinh tế chững lại, bất bình đẳng xã hội gia tăng, chất lượng cuộc sống và môi trường suy giảm ». « Trong lĩnh vực kinh tế, chủ trương của Bắc Kinh là cố sức dành riêng thị trường nội địa Trung Quốc cho các doanh nghiệp địa phương, bằng cách ngăn cản các đối thủ nước ngoài. Chính quyền Trung Quốc đồng thời lợi dụng cuộc khủng hoảng tài chính của phương Tây để giành được nhiều cổ phần béo bở ». Còn trên trường quốc tế, « Trung Quốc liên tiếp mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra toàn thế giới, từ dự án Con đường Tơ lụa đến triển khai hải quân ở các vùng biển xa », cũng như phát triển một lực lượng « chiến tranh mạng » hùng hậu trong quân đội nước này.
Phương Tây kháng cự, Pháp bị phê phán
Le Point phê phán phản ứng « vô trách nhiệm » của chính phủ Pháp, khi bỏ rơi sân bay Toulouse, trụ sở Airbus và nhiều cơ sở nghiên cứu của Airbus vào tay các nhà đầu tư Trung Quốc, trong khi Hoa Kỳ có thái độ « từ chối một cách hệ thống việc nhượng các cơ sở hạ tầng quan trọng cho Trung Quốc ». Và Anh Quốc mới đây đã xét lại hợp đồng đầu tư 21,3 tỷ đô la của Trung Quốc vào một dự án điện hạt nhân của nước mình. Liên Hiệp Châu Âu cũng phải « thức tỉnh » để quyết định không công nhận kinh tế Trung Quốc đủ tiêu chuẩn « quy chế thị trường », trong bối cảnh công nghiệp thép hay pin mặt trời của châu Âu bị hàng trợ giá của Trung Quốc đè bẹp.
Theo Le Point, « chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh… đã kích động một cuộc chạy đua vũ trang tại châu Á ». Một loạt các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc đang gia tăng đầu tư cho quân sự để đối phó với Trung Quốc. Úc tăng cường hải quân. Hoa Kỳ cũng dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam.
Le Point dự đoán : « Trung Quốc vẫn tiếp tục là quốc gia xuất khẩu số một thế giới… nhưng trong thời gian tới, quốc gia này sẽ không phải là một nhà nước pháp quyền, cũng không phải một nền kinh tế thị trường ». Bởi tại Trung Quốc, một « hợp đồng » không phải là điều « ràng buộc các bên cam kết ». Những nguyên tắc tối cao mà Bắc Kinh tôn trọng là « các lợi ích của đế chế Trung Hoa và của đảng Cộng Sản ». Các lợi ích của chế độ phải được coi là tối cao, bất chấp việc kinh tế Trung Quốc bị ngăn cản trên con đường « chuyển hướng sang một nền kinh tế dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng cao, với nhiều cách tân ».
Tờ báo kết luận, Trung Quốc đã chọn « một chính sách chỉ dựa vào sức mạnh. Bắc Kinh sẽ cứng rắn với những quốc gia nào có ý định chống lại, đứng đầu là Mỹ, và không thương tiếc với những nước yếu hơn, đứng đầu trong số đó có Pháp và châu Âu ».
Thổ Nhĩ Kỳ, « nỗi lo của châu Âu »
Thổ Nhĩ Kỳ sau cú đảo chính hụt tiếp tục là nỗi ám ảnh của châu Âu. « Đất nước khiến châu Âu lo sợ » là tựa trang nhất Le Point. Ba vấn đề mà Le Point muốn nhấn mạnh là người tị nạn, nền độc tài và tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo.
Trong lúc Bruxelles giải ngân 1,4 tỉ đô la bổ sung để giúp Thổ Nhĩ Kỳ định cư người tị nạn Syria (ngày 28/07), chính quyền Erdogan tiếp tục chiến dịch thanh trừng rộng khắp với hơn 50.000 người bị tịch thu hộ chiếu, 60.000 viên chức bị sa thải… Xu thế độc tài của ông Erdogan cũng đặt Hoa Kỳ trước tình thế khó xử.
Bởi Thổ Nhĩ Kỳ từng là « đối tác mẫu mực » của nước Mỹ, quốc gia Hồi giáo đầu tiên mà Barack Obama tới thăm, trụ cột của chiến lược ổn định an ninh trong khu vực của Mỹ, thậm chí mô hình cho các cuộc cách mạng mùa xuân Ả Rập. Đối với Obama hiện nay, « nổi giận với Erdogan, cũng có nghĩa là tiêu hủy toàn bộ chiến lược quân sự chống lại Daech ».
Le Point cũng ghi nhận, trở ngại trên con đường Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập châu Âu (khởi sự từ 1999) trước hết đến từ nước Pháp thời tổng thống Sarkozy, và tiếp theo đó là Đức, và công luận nói chung. Còn trong thời gian 5 năm trở lại đây, chính tổng thống Erdogan là người chủ trương kìm hãm các đàm phán. Hiện nay, Thổ Nhĩ Kỳ của Erdogan đã chọn con đường « hoàn toàn không nhân nhượng châu Âu, trong khi hòa giải với nước Nga Putin ».
Trong hồ sơ Thổ Nhĩ Kỳ, Le Point cũng chú ý đến mối quan hệ hết sức mập mờ của chính quyền Erdogan với tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo (Daech). Cách đây hai năm, trong bối cảnh Daech đang hoành hành tại Syria, lá cờ đen của tổ chức này được treo công khai tại nhiều cửa hàng ở Istanbul, nhiều bằng chứng cho thấy chính quyền Ankara cung cấp vũ khí cho phe thánh chiến. « Căn bệnh ung thư thánh chiến Hồi giáo » bắt đầu tác oai tác quái trong một năm trở lại đây tại chính quốc gia này, với các vụ khủng bố tự sát xảy ra liên tiếp. Theo Le Point, sự cắt đứt muộn mằn với Daech là « quá muộn ».

Duyên nợ châu Âu - Thổ Nhĩ Kỳ
Trở lại với lịch sử có thể giúp soi tỏ nhiều bối rối trong hiện tại. Bài « Điều chúng ta mắc nợ Thổ Nhĩ Kỳ » của Le Point điểm lại những cội nguồn lịch sử phức tạp của đất nước nằm ở vị trí bản lề giữa châu Âu và châu Á này. Theo nhà sử học Nicolas Vatin (đồng tác giả cuốn « Từ điển đế chế Ottoman » (2016), « nếu như đế chế Thổ không thuộc vào châu Âu Thiên chúa giáo, thì đế chế này cũng tham gia vào lịch sử châu Âu ». Quan hệ Thổ Nhĩ Kỳ và châu Âu không chỉ có chiến tranh, đối đầu.
Sử gia Nicolas Vatin điểm lại nhiều mối liên minh giữa một số thế lực châu Âu với đế chế Ottoman. Kể từ thế kỷ XIX, ảnh hưởng văn hóa từ châu Âu gia tăng, khi đối với nhiều người Thổ Nhĩ Kỳ châu Âu đồng nghĩa với tiến bộ. Trong khi đó, bán đảo Anatolia (vùng lãnh thổ trung tâm của Thổ Nhĩ Kỳ) từng là nơi cư ngụ của rất nhiều sắc dân, trong đó có người Hy Lạp (chiếm tới hơn 16% dân số hồi đầu thế kỷ trước). Đạo Hồi tại Thổ Nhĩ Kỳ - chịu ảnh hưởng nhiều của tông phái Sufi – được ghi nhận là cởi mở hơn nhiều so với các truyền thống Hồi giáo bảo thủ như nhánh Wahhabi (thịnh hành tại Ả Rập Xê Út).

Đường ruột tốt, sức khỏe tốt
Những phát kiến mới trong y học là chủ đề chính của tuần báo L’Express, với tựa trang nhất : « Đường ruột đối với sức khỏe chúng ta ». L’Express cho biết, « một ngành y học mới » đang mở ra nhờ việc nghiên cứu « những quyền năng không thể tin được của hệ vi khuẩn đường ruột » đối với việc phòng ngừa và khắc phục các bệnh tật.
Theo L’Express, một cuộc cách mạng đang đảo lộn nền y học đương đại trong vòng 10 năm trở lại đây. Đường ruột chúng ta với gần 100.000 tỉ vi khuẩn ngày càng được khẳng định là có một vai trò hết sức quan trọng đối với sức khỏe, hơn nhiều so với quan niệm chính thống lâu nay (với định kiến coi vi khuẩn là có hại).
Vai trò của vi khuẩn đường ruột trong hàng loạt các bệnh mãn tính đang ngày càng được làm sáng tỏ. Cụ thể là các căn bệnh như ung thư, tim mạch, béo phì, tự kỷ, tiểu đường, dị ứng, parkinson… hay các bệnh tâm lý như tâm thần phân liệt, suy nhược, lo hãi, rối loạn giấc ngủ…
Theo một chuyên gia, cơ thể con người là "nơi cộng sinh giữa các tế bào người và các vi sinh vật… Giữa hai thành phần này liên tục có các đối thoại". Cụ thể là « đối thoại » diễn ra giữa hệ thần kinh ruột (với khoảng 100 đến 200 triệu nơ-ron) và trăm nghìn tỷ vi khuẩn nói trên, thông qua hai con đường thần kinh và máu. "Nếu mối quan hệ cộng sinh bị bẻ gẫy, bệnh tật sẽ xuất hiện".
Các vi khuẩn tốt là cơ sở cho một sức khỏe tốt. Hệ vi khuẩn đường ruột như vậy cũng ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần của mỗi người.
Theo một chuyên gia về lĩnh vực này, trong xã hội phát triển đương đại, có đến 25% dân số thiếu tới 40% lượng vi khuẩn đường ruột, do một loạt tác động xấu, như dùng thuốc kháng sinh, ăn uống không đúng cách, thời gian dùng sữa mẹ giảm mạnh, số lượng con ra đời bằng con đường mổ đẻ gia tăng… Các hiểu biết mới trong lĩnh vực đường ruột mang lại hy vọng đảo ngược xu thế xấu này.
Kể từ 5 năm nay, trong điều trị chống ung thư, các nhà nghiên cứu đang phát triển « môn trị liệu miễn dịch ». Cụ thể là nhờ một số vi khuẩn đặc biệt trong đường ruột, mà kháng thể chống tế bào ung thư hoạt động hiệu quả hơn.
Âm hộđòi bình đẳng
Le Nouvel Observateur tuần này quan tâm đến « Cơ quan sinh dục phụ nữ. Lịch sử một chủ đề kiêng kỵ ». Bài « Sự phục thù của âm hộ » của Le Nouvel Observateur điểm lại nhiều cố gắng dũng cảm trong ít năm gần đây, chống lại tập quán truyền thống, để trả lại cho cơ quan sinh dục phụ nữ một vị thế bình đẳng với nam giới. Từng có được cách nay 35.000 năm, vào thời kỳ đồ đá cũ, khi hình ảnh âm hộ được trang trí trên cửa các hang động hay các đồ vật.
Trong một thời gian rất dài, hình ảnh âm hộ hoặc bị che giấu, hoặc là độc quyền của lĩnh vực mãi dâm. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, chính bản thân rất nhiều phụ nữ cũng chưa từng trực diện cơ quan nhạy cảm này của chính mình. Trong khi đó, sự thống trị của ngành công nghiệp mãi dâm khiến cho không ít thiếu nữ mặc cảm với hình ảnh âm hộ của bản thân.

Theo một hiệp hội phụ khoa Hoa Kỳ, trong năm 2015, số người muốn phẫu thuật thẩm mỹ âm hộ tăng lên tới 80%. Mặc cảm, thiếu hiểu biết về cơ quan sinh dục phụ nữ có thể để lại nhiều hậu quả bi thảm. Nhà phụ khoa Odile Buisson phẫn nộ : « Sự ngu muội thật là khủng khiếp ! Tại sao có thể như vậy, trong khi âm hộ cũng là một bộ phận cơ thể như trái tim, buồng gan ? », « người ta không chấp nhận âm hộ cũng là một cơ quan khoái lạc ».
Câu chuyện tranh nổi tiếng « Cội nguồn thế giới » của Liv Stromquist nhắc lại rằng, vào năm 1973, NASA đã gửi lên không gian phi thuyền Pionner để hy vọng gặp người hành tinh khác, có mang theo một bức họa hai người, một đàn ông, một phụ nữ không quần áo. Trong khi người đàn ông có cơ quan sinh dục, thì người phụ nữ không.

Bài « Sự phục thù của âm hộ » kết thúc với câu chuyện về bức họa nổi tiếng « Cội nguồn thế giới » của Gustave Courbet – ra đời năm 1866 - trong một thời gian dài đã bị cất kỹ, cho đến cuộc trưng bày năm 1995 tại bảo tàng Orsay, Paris. Hình ảnh âm hộ trong bức tranh cội nguồn thế giới là một phụ nữ thiếu đầu. Ngày 29/05/2014, nghệ sĩ Déborah de Robertis đã làm sống lại bức họa nổi tiếng này với màn trình diễn âm hộ sống ngay trước bức tranh lịch sử.
Nữ nghệ sĩ Luxembourg tâm sự : khi làm điều này, « tôi nghĩ rằng tôi đang trưng bày không phải cơ quan sinh dục của chính tôi, mà của toàn thể nữ giới ».

No comments:

Post a Comment