Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 26 October 2016

TRUYỆN LÊ QUANG VINH -DU SINH HỒI HƯƠNG

LÊ QUANG VINH * CHỊ CẢ

CHỊ CẢ

LÊ QUANG VINH

Vinh 
Bà Lê Thị Toán

CHỊ CẢ

Nhà báo Lê Quang Vinh 
          

QTXM: Ngày mai 30/1/Bính Thân (8/3/2016) – là 15 năm ngày Giỗ chị Cả Nhà báo Lê Quang Vinh – Bà Lê Thị Toán. Số phận bà chị này tội nghiệp lắm. Đội CCRĐ vận đông đấu tố mẹ, khùng lên chửi lại chúng; liền bị đánh cho vọt thai ra suýt chết. Qua hồi ức của hai người em trai: Đại tá Lê Phương và em út – Nhà báo Lê Quang Vinh, người chị gái là một phụ nữ nghèo khó, đảm đang thay chồng mọi việc gia đình vì anh rể đang thoát ly tham gia 2 cuộc kháng chiến đánh Pháp và Mỹ. Chị Cả một mình nuôi 6 đứa con và một mẹ già (bên chồng) trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt,
QTXM xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những ký ức rất đáng được chia sẻ đối với người chị Cả luôn vất vả với “một nắng, hai sương” này của Nhà báo Lê Quang Vinh. Tình cảm hai người em trai dành cho chị Cả thật da diết, cảm động.
            Bà Lê Thị Toán – tục danh là Chắt Ả – sinh tháng 10 năm Bính Dần (tháng 11/1926), tại tư gia ông bà ngoại là cụ Ngô Nhật Tuyên và cụ Lê Thị Liên, ở thôn Thượng Phường, làng Lộc Điền, tổng Phong, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Thân phụ là cụ Lê Duy Tiếu (tục danh là “Chắt Tíu”), sinh năm Nhâm Dần (1902) – mất 26/10/năm Mậu Tý (26/11/1948), quê ở làng Hòa Ninh, tổng Thuận Thị, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình;  thân mẫu là cụ Ngô Thị Kiêm, sinh ngày 12/8/năm Bính Ngọ (29/9/1906) – mất ngày 18/9/năm Mậu Thìn (28/10/1988), quê ở thôn Thượng Phường, làng Lộc Điền, tổng Phong, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
      Vinh1
Chị Cả và em trai Lê Quang Vinh trước cổng nhà ông ngoại – Cụ Ngô Nhật Tuyên.

  Bà Lê Thị Toán là con gái đầu lòng trong gia đình người trưởng tộc họ Lê Duy làng Hòa Ninh – cụ Lê Duy Tiếu (ông nội là cụ Lê Duy Trinh, bà nội là cụ Đoàn Thị Diệp); là  thế hệ “chắt” trong đại gia đình ông bà ngoại là cụ Ngô Nhật Tuyên và cụ Lê Thị Liên – nên mới có tục danh là “Chắt Ả”. 

            (Cụ Ngô Nhật Tuyên với người vợ đầu là Cụ Nguyễn Thị Bẹn – tục danh là “Mệ Thí” – có người con đầu là Ngô Thị Nậy. Bà Ngô Thị Nậy sinh được 3 người con (2 trai và 1 gái). Người con trai thú 2 tên là Nhuyền, lớn hơn bà Lê Thị Toán 3-4 tuổi, là chắt thứ 2 của các cụ. Vào thời gian CCRĐ, người này đã đấu tố chính ông Ngoại của mình là cụ Ngô Nhật Tuyên vô cùng tàn nhẫn. Bà Lê Thị Toán là chắt thứ 4 của cả đại gia đình; nhưng lại là chắt đầu (Chắt Ả) của bên bà ngoại Lê Thị Liên).
             Tuổi ấu thơ và niên thiếu, bà Lê Thị Toán cùng mẹ và ba em ở quê ngoại; khoảng 13 – 14 tuổi, mới chuyển về sống bên quê nội là làng Hòa Ninh. Về Hòa Ninh, cuộc sống hoàn toàn đổi khác không như quê ngoại. Quê ngoại là chốn quê có cuộc sống dựa vào nghề buôn bán “trên bến dưới thuyền”; bởi thế con trẻ – nhất là ở gia đình khá giả, công việc thường ngày không quá thúc bách, vất vả như vùng “thuần nông”; sinh hoạt vật chất khá phong phú, ít kham khổ…Còn Hòa Ninh quê nội – vùng nông nghiệp pha nghề thủ công, cư dân vô cùng vất vả với bát cơm manh áo. Thế mà khi chuyển đổi cuộc sống, bà Lê Thị Toán cùng hai em gái là Lê Thị Hạnh Phúc và Lê Thị Chanh (em trai Lê Phương và em gái Lê Thị Châu còn quá nhỏ), không khó lắm đã hòa nhập ngay; để rồi cũng “thức khuya dậy sớm” phụ giúp cha mẹ công việc như con cái mọi nhà của quê nội Hòa Ninh. Các bà hiền thục, siêng năng, tảo tần cùng lớn lên trong ngôi nhà mới.
Tuổi thơ và tuổi thiếu niên của bà Lê Thị Toán – với vai trò là người con cả, người chị cả, bà đã cống hiến xuất sắc từ việc chăm bẵm đàn em tới mọi sinh hoạt trong nhà như xay lúa giã gạo, giặt giũ áo quần, bèo rau cám bã cho lợn gà và bao nhiêu công việc của vườn tược cũng như ngoài đồng áng. Ông Lê Phương – em trai bà – đã có những dòng văn thơ vô cùng cảm kích, trong đó ẩn chứa bao thông tin về đoạn đời vô cùng tươi đẹp của người chị gái mến yêu của mình: 
                       …. “Cho em hôn đôi bàn tay Chị
                         Ôi bàn tay “một nắng, hai hai sương” 
                         Bàng tay bồng bế đàn em nhỏ
                         Sài ăn sưng phồng Chị nhớ không?”…
  Cổ nhân có câu: “Thiên duyên giai ngẫu” (Duyên Trời đẹp đôi). Có lẽ thế nên khi bà Lê Thị Toán tới tuổi “cập kê”, không ngẫu nhiên chút nào, đã bén duyên cùng ông Đinh Duyệt – nó như là “tiền định” của “Duyên Trời”; cho nên mối duyên đầu này mới “đại hỷ tác thành” để nay được “sum suê cành nhánh”, đông đúc đàn con chau. 
Làm người vợ mà có chồng là cán bộ thoát ly tham gia hai cuộc kháng chiến và sau đó là hàng chục năm nuôi con một mình trong thời kỳ kinh tế “bao cấp” khốn đốn;  bản thân là xã viên của HTX nông nghiệp, làm gạch ngói vô cùng nặng nhọc mà gần như không có thu nhập…thế nhưng bà Lê Thị Toán đã gáng vác trọn vẹn việc nhà; đảm đang thay chồng nuôi đàn con trong vô vàn thiếu thốn, trong vô vàn những ngặt nghèo của đồng tiền lương và trợ cấp ít ỏi của chồng chỉ đủ cho rau dưa khoai sắn; nên có khi đứt bữa, có khi bạc hồn bởi bệnh tật rình rập và đã bao phen quật ngã bà thành trọng bệnh như ho lao, tràng nhạc (lao hạch)…
                   ..“Dành trọn tình thương cho chồng con,
              Bao phen đói kém bạc vìa hồn;
              Bốn mùa chân lấm, tay không nghỉ
              Một đàn con nhỏ quấn bên hông”…
Ông bà Đinh Duyệt – Lê Thị Toán, có cả thảy 6 người con – nhưng vô cùng thương tiếc, người con thứ hai là Đinh Thị Minh, mất khi mới 3 tuổi – còn lại 5 người, gồm hai trai là: Đinh Công Bình, Đinh Quang Thái; ba gái là: Đinh Thị Thảo, Đinh Lê Vịnh, Đinh Thị Vân Đào, họ luôn là những người con hiếu thảo, thương yêu cha mẹ, anh em hòa thuận đùm bọc nhau lúc còn nhỏ cũng như khi đã trưởng thành. Đó chính là công đức giáo dưỡng của ông bà có thể ví như “núi Thái sơn cao vòi vọi, biển Đông trập trùng”; dĩ nhiên phần vất vả trực tiếp là thuộc về người mẹ. Thế nhưng, suốt cả cuộc đời gian lao khổ cực, Bà Lê Thị Toán đã luôn vượt lên tất cả để dành trọn vẹn mọi yêu thương cho chồng con.
           Bà Lê Thị Toán là người con gái chí hiếu của cha mẹ. Cụ thân mẫu Ngô Thị Kiêm lúc sinh thời, đã luôn dành cho con gái biết bao tình cảm vô cùng điển hình của “tình thâm mẫu tử”. Hiểu thấu tình cảng của con, cụ thường xuyên san sẻ cho con gái từng lon gạo, bát canh đến đồng quà tấm bánh cho các cháu.
Thời gian sau “cải cách ruộng đất” cho tới khoảng năm 1966, cứ mỗi buổi chiều đi chợ Trường, mẹ mua sắm thức gì thường sẻ chia cho con thứ ấy. Mẹ thì rán ram, bánh rán, có thời gian bán bánh “rò” (tiếng địa phương – bánh chưng nhỏ) rồi nấu cả cháo canh…; con gái ngồi phụ giúp mẹ, cùng nếm trải bao vất vả buồn vui của chợ quê. Cứ như vậy, các cháu ngoại của cụ Ngô Thị Kiêm thường xuyên được bà “chi viện” rau dưa, cá mú. Hễ hôm nào mà cụ nấu món ngon ngon, thì dứt khoát dì hoặc cậu cũng phải vượt sông (có đò thì đi đò, không có đò thì lội sông) để mang sang cho chị gái và các cháu.
Tình cảm hai mẹ con vốn rất hợp nhau, trọn vẹn cho tận cuối đời cụ thân mẫu, khi cụ đi đi về về Hà Nội – Quảng Bình. Ở Quảng Bình thì nhà con gái là nhà của cụ.
Đối với các em, bà Lê Thị Toán luôn là người chị hiền thảo, được các em vô cùng yêu thương, kính trọng. Chúng ta rất dễ dàng nhận rõ điều này qua những dòng viết (thơ và hồi ký) của người em trai vô cùng yêu dấu của bà – Đại tá Lê Phương: 
               “Em thương chị cả đời lam lũ­
               Chẳng có khi nào được thảnh thơi
               Dù đói no, nghĩa tình chung thủy
               Chị của em như ngọc sáng ngờ”
          “Tôi kính yêu cha mẹ, những người đã sinh ra tôi. Tôi yêu mến hai người chị thân thương và những đứa em đang sống bên lòng mẹ.
Những năm tháng liền kề trước và sau Cách mạng Tháng 8, những ngày đất nước còn hòa bình, hạnh phúc; trong đám hoa khôi cùng làng, hai chị gái tôi, chị Lê Thị Toán và chị Lê Thị Hạnh Phúc, luôn được cái “may mắn” người làng xếp vào hạng nhất nhì. Những lời ưu ái, bình phẩm vô tư đó, không hiểu có làm cho hai chị tôi phải “hỏi mình” trong gương không? Nhưng tâm lý mà xét, với các cô thiếu nữ đang độ xuân xanh như hai chị, những lời khen chê cũng làm cho tâm hồn các chị vui sướng lâng lâng hay âm thầm đau khổ.
Người chị cả giống tính cha nhiều hơn và chị thứ hai giống tính mẹ. Cũng như tôi, hai chị gái thuở nhỏ được nuông chiều của quê ngoại. Thế nhưng khi về Hoà Ninh thì đã chớm lớn khôn; nên như bao cô gái Hoà Ninh khác, các chị cũng phải “thức khuya dậy sớm” để đỡ đần cha mẹ.
Vốn có “nhan sắc” cộng với tính nết hiền lành, công việc siêng năng, đã làm cho hai chị nức tiếng tăm. Mẹ thường nhắc lại, lúc còn sống bên mẹ, hai chị rất hoà thuận và thương yêu nhau. Chị ngã em nâng, em nhường chị, chị yêu em, không bao giờ cãi lộn nhau.
 Hai chị gái vào ngữ 15 – 18 tuổi,  trai “trong làng ngoài xứ” thật nhiều “nơi” ngấp nghé. Rồi trong một chuyến đò dọc, sau khi đi chợ phiên Ba Đồn về Hoà Ninh, một chàng trai đất Vĩnh Lộc cùng đi chuyến đò ấy, đã bị “hút hồn”. Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên của cuộc tình duyên sau này của chị cả.
Và một chàng trai hàng xóm sau bao năm bôn ba trở về làng đã thành người anh rể thứ 2 của tôi trong lúc chị hai chưa hiểu trọn nghĩa chữ “yêu đương”.
Tôi cũng luôn tìm thấy ở hai người chị nhiều đức tính của mẹ tôi, đó là tình thương anh chị em và lòng chân thật. Không như một số cô gái Hoà Ninh con nhà giàu khác thường hay ẻo lả, đanh đá chanh chua; hai chị tôi có một vẻ thùy mỵ, nết na, chân chất của những cô gái làng, khiến ai ai cũng thường khen. Lấy ngay trong dòng họ mà so sánh; thuở nhỏ nếu những người con của họ (o tôi) mồm mép liến thoắng, tinh ranh thì trái lại, hai chị tôi quá thật thà, nếu như không muốn nói là “khờ dại”!
Lúc nhỏ, hai chị cùng học với nhau một lớp. Hằng ngày, sau khi dọn dẹp việc nhà cửa xong xuôi, phải có tiếng kẻng vào lớp thì hai chị mới tất tả cắp sách chạy bộ đến trường. Chị cả không thích đi học nên bỏ dở lớp ba thời Pháp thuộc. Trái lại, chị hai ham học nên rất chuyên cần; vì thế học khá giỏi – nhất là môn Pháp ngữ. Đó cũng là một thiệt thòi cho chị cả, sau này bước vào đời, chị đã vô cùng cực khổ do “văn hóa thấp”.
Hai chị tôi giống nhau mà cũng khác nhau. Nếu chị hai hiền từ và dịu dàng (lúc nhỏ, đôi khi mẹ mắng yêu là “mảnh khảnh như người không ăn”), thì chị đầu mạnh bạo, “ăn to nói lớn”.
         Hai chị bước vào đời cũng khác nhau. Lấy chồng thì phải theo chồng, đẻ con và nuôi con. Trong luỹ tre làng, với mảnh ruộng con bò, chân  lấm tay bùn; từ người con gái chưa bao giờ cày cuốc, chị cả đã thực thụ thành một người nông dân. Chồng đi công tác, một mình sống nuôi con với những đường bờ của mảnh ruộng nhỏ hẹp. Cuộc sống bình thường phẳng lặng, trông vào giọt mồ hôi đổ xuống cánh đồng, ngày qua tháng lại với đường cày để ra lúa, đậu, ngô khoai; con gà, con lợn…Dưới nách 3 con dại (thời điểm 1956), ràng buộc vì con cái bếp núc, đó cũng là một khó khăn để tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài, ít được học tập, tầm mắt còn hạn chế trong luỹ tre…
Chị tôi còn mang nặng đầu óc bảo thủ. Đó cũng là một khó khăn trong phong trào “Cải tạo nông thôn xây dựng cuộc sông mới” hiện nay, của cái gia đình bé nhỏ của anh tôi (chị vào HTX nông nghiệp khá muộn, đợt cuối cùng).
Anh chị em chúng tôi đã khuyên bảo nhiều lần nhưng đầu óc chị còn quá nặng nề, tiếp thu “tư tưởng mới” còn vất vả. Anh rể tôi dự định “điều” chị vào cơ quan – chỗ công tác – để mở một lớp “huấn luyện đoản kỳ” để dạy vỡ toang cái màng “bong bóng nước” đó trong đầu chị.
Trong sai lầm của “Cải cách ruộng đất”, chị tôi cũng bị quy sai là “phú nông có liên quan với địa chủ” (mẹ đẻ, ông ngoại, bà nội đều bị quy “địa chủ” tất) – Cũng một thời đảo điên, là một người “bảo thủ nặng”, nên thù mang nặng oán ghi sâu, chưa xoá hết.
          Nói đến chị cả, không thể không nói đến người anh rể mà lòng tôi kính mến, trọng vọng từ ngày đầu. Tôi luôn tin anh là một người chân thật và tốt.
Nếu trong tình chị em của một số người luôn bị vẩn đen vì sự tính toán thiệt hơn, có khi còn vụ lợi; thì giữa chị em chúng tôi, lúc nào cũng thành thật thương yêu, nổi lòng luôn cởi mở. Tôi mong rằng những đứa em của tôi sau này lớn lên cũng như chúng tôi. Và chúng tôi, những người anh người chị, sẽ giữ mãi mối tình ruột thịt đằm thắm đó, không để một chút bụi đời hoen ố tình cảm của mình.
Tôi yêu quý hai người chị gái thân thương; yêu người anh rể rất thương vợ, thương con – Người đã mở cho đầu óc tôi những nhận thức đầu tiên về Cách mạng, về Đảng.
Tôi nhớ mãi câu dặn dò của anh tôi trong một bức thư gửi cho tôi năm 1945 –  lúc tôi đang học ở Vinh. Trong buổi đầu tiên xa nhà, nhớ gia đình, tôi buồn và đã khóc… Anh viết: “Em đã là “cháu Bác Hồ” thì không nên buồn vì nhớ nhà; nếu có buồn thì buồn vì máu đồng bào ta đã chảy ở Nam Bộ bởi bọn Thực dân tàn ác”.
Và cũng người anh đó – anh Đinh Duyệt – những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, trong căn nhà của dì họ tôi ở Tuyên Hoá (dì Cửu Nhạn), hai anh em nằm bên nhau, anh đã nói cho tôi nghe nhiều điều về cuộc sống, về lý tưởng và nghĩa vụ của người thanh niên trong thời đại mới…
Tôi yêu mến đứa em gái – con nuôi của gia đình mà được xếp thứ bậc sau tôi – em Chanh. Chanh là giọt máu của dòng họ Ngô, con một người cha lưu lac (ông là anh họ của mẹ, tên là cụ (cậu) Đái Ưu, vì đói khổ, vợ lại chết sớm, phải dắt díu người con trai cả lang bạt sang Lào – sau là Thái Lan – tìm kế sinh nhai). Do quá nhỏ, bị bỏ lại ở quê, Chanh phải đi ở nhà người và không sống nổi với họ; mẹ tôi quá thương tình, đã đưa về nuôi từ lúc thơ dại. Mẹ tôi và chúng tôi vẫn luôn coi Chanh thực sự là đứa con, đứa em ruột thịt trong gia đình, không hề phân biệt “con nuôi” hay “con đẻ”. Với tấm lòng nhân hậu và tầm nhìn xa trông rộng, Mẹ đã chọn người để “tác thành” nên vợ nên chồng cho Chanh. 
Ngày cải cách ruộng đất, Chanh được xếp là đối tượng “cố nông”, được cốt cán huấn luyện thành nhân tố chính, cơ bản để đấu tố tội trạng “bóc lột” của mẹ đang bị quy “địa chủ”. Thế nhưng khi được gọi lên để đấu tố, Chanh đã ôm lấy mự (mẹ) mà khóc; nói rõ trước “tòa án nhân dân”: “Mự tôi luôn thương yêu tôi! Tôi luôn được đối xử tử tế không khác con đẻ trong nhà, ăn uống no đủ; làm việc như mọi đứa con khác…”. Chanh khóc gào lên và ngay lập tức bị đội cải cách đuổi ra ngoài. Người em gái đó đã gắn liền với gia đình tôi từ lúc còn nhỏ và hiện nay tình cảm vẫn như xưa…
          Tôi yêu thương những đứa em của tôi hiện trong cuộc sống còn chật vật, tuổi thơ ấu đã chịu đựng nhiều đắng cay. Chúng tôi – những người anh, người chị đã và đang cố gắng giảm một phần gánh nặng của mẹ, cho các em được học hành như các em nhỏ khác”.
                                                                    Lê Phương
                                           (Rút trong tập hồi ký “Những tiếng lòng của tuổi xuân”  
                                                          Viết xong ngày 27/7/1959) 
Hôm nay, chúng ta quần tụ về đây trên quê hương, mừng phúc lớn của đại gia đình: ông Đinh Duyệt bước sang tuổi 90. Chúng ta tin rằng, bà Lê Thị Toán cũng như đang hiện diện cùng chúng ta; đang phù hộ cho chồng luôn vui khỏe, an lành để tiếp tục sống trường thọ, trường trường thọ!
Cầu mong bà linh thiêng, nơi suối vàng luôn an lạc để các cậu dì, chồng, các em, con cháu mãn nguyện bởi lòng nhớ thương!
Cầu mong Bà phù hộ độ trì cho tất cả đại gia đình ta luôn được sức khỏe dồi dào, an lành mọi việc!
                                                 Hà Nội, 21 giờ 48’, ngày 14 – 7 – 2009
                                           Em trai út của chị cả thương cảm vô cùng
                                                                  Lê Quang Vinh

MỜI CÁC BẠN ĐỌC BÀI THƠ CẢM ĐỘNG CỦA CỐ ĐẠI TÁ LÊ PHƯƠNG TẶNG CHỊ GÁI

CHỊ !

Lê Phương        
Tặng chị Toán kính yêu
Ngày 4/3/1973, khi em đang nằm ở Quân y viện 108 – một sự bất ngờ: Mự, chị, cùng các em Liệu, Cấu, Lài đến thăm. Đã gần 5 tháng nay nằm bệnh viện, vì sơ tán, nên hôm nay mới gặp Mự – Người mẹ già nua, bệnh tật ấy rất thương con thương cháu; và chị Toán, ôi người chị cả mà cả cuộc đời vất vả – Ngưòi chị mà cả cuộc đời hi sinh vì chồng vì con – Người chị mà thời con gái cũng vào loại xinh đẹp bậc nhất ở Hoà Ninh – Người chị đã hy sinh, chịu thiệt thòi nhiều nhất để phần sung sướng cho các em; đã thay Mự bón cháo, mem cơm cho đàn em; đã phải bỏ học để ở nhà bế các em Liệu, Lài; bị sài của các em lây sang ăn sưng phồng cả hai bàn tay rất đau đớn.
Hai cuộc chiến tranh, chị vẫn lặn lộn với đồng ruộng quê nhà. Từ năm 1964, hôm nay em mới gặp lại chị. Trong 6 chị em, chị là nguời vất vả nhất vì đông con, trình độ có hạn. Gặp chị, là em khóc – và chị cũng khóc vì thưong xót đứa em đau ốm. Lòng tôi quặn đau khi thấy chị già yếu đi nhiều quá. Chị có một đứa con đầu (Cu Bình) đang chiến đấu ở Campuchia. Với sự xúc động và thương nhớ khi chị giã từ để về lại quê hương, em làm mấy vần thơ về chị.
Chị đến thăm em một buổi chiều,
Em buồn mây gió cũng hiu hiu
Chị ơi! Sáu năm trong đất lửa,
Gặp em sao lệ ứa ngậm ngùi…
Chín năm rồi nhỉ, ít gì đâu?
Hai chị em mình chẳng gặp nhau;
Bom đạn ngăn chia tình rụôt thịt,
Lòng em trăn trở tháng ngày đau.
Ôi chao! Chị đã thế này sao?
Tóc bạc, thân gầy, má xanh xao;
Còn đâu bóng dáng ngày xưa ấy,
Nón trắng quai thao, áo lụa đào…?
Phiên chợ Ba Đồn ai đã thấy,
Cô gái Hoà Ninh bán cúi bông.
Cúi trắng như lòng trong trắng ấy,
Một miếng trầu tươi má ửng hồng…
Cũng là con của mẹ cha sinh,
Mà sao đời chị lắm gian truân
Bốn mùa chân lấm, tay không nghỉ,
Một đàn con nhỏ quấn quanh mình…
Gặp chị như thấy cả quê hương,
Mảnh đất chôn rau – đất kiên cường,
Sáu năm bom Mỹ ngày đêm giội,
Mỗi người dân hoá một anh hùng.
Cho em hôn đôi bàn tay Chị
Ôi bàn tay “một nắng, hai hai sương”
Bàng tay bồng bế đàn em nhỏ
Sài ăn sưng phồng Chị nhớ không?
Dành trọn tình thương cho chúng em
Trăm năm tạc dạ chẳng hề quên
Nhớ khi măng sữa trên tay chị
Bón cháo, mem cơm… thay mẹ hiền.
Em thương chị một đời lam lũ,
Chẳng có khi nào được thảnh thơi
Dù đói no, nghĩa tình chung thủy,
Chị của em như ngọc sáng ngời*.
Chị về mang hộ đứa em xa
Ơn sâu, nghĩa nặng gửi quê nhà
Đất mẹ nuôi em từ thơ ấu
Mỗi làng, mỗi xóm một bài ca…
Quân y viện 108, một chiều năm 1973
Em chép tặng Chị để khi nhớ chúng em, Chị đọc cho đỡ nhớ.
Lê Phương  

BÙI MỸ DƯƠNG * TẠ ƠN ĐỜI




 TẠ ƠN ĐỜI, TẠ ƠN NGƯỜI
BÙI MỸ DƯƠNG 

Câu chuyện một cụ gìa sống 104 tuổi, hỏi về bí quyết sống lâu, cụ trả lời " luôn biết nói lời cám ơn". Cám ơn Bố Mẹ, Chồng, các con, anh chị em, cám ơn mọi sự quan tâm săn sóc. Cám ơn từng ngày sống bình yên, ấm cúng, vui vẻ và hạnh-phúc. 
Sống tới tuổi " cổ lai hy" thất thập nhìn lại cuộc đời đã đi qua thấy cần phải nói lên những ân nghĩa mà cuộc đời đã cho. Dù đời đầy chông gai sóng gió nhưng cũng đi gần hết được một đoạn đường dài với bao thăng trầm, hạnh phúc.
Bài học thuở đầu đời là công ơn Cha Mẹ, lòng yêu nước, thương người, tình gia-đình, chồng con, anh chị em, bạn bè, thầy trò không bao giờ cũ, thừa.
Vậy chúng ta phải tìm đến những người, những nơi đã mở rộng bàn tay chào đón chúng ta vào đời và nuôi dưỡng đến ngày nay.
Tình nặng, nghĩa sâu: Cha Mẹ.
 Tạ ơn Cha đã yêu mẹ một đời,
 Tạ ơn Mẹ đã mang con trong dạ.  ( Bút Xuân)
Cám ơn Mẹ với những ngày tháng nhọc nhằn, nỗi buồn lo, mang nặng đẻ đau, cho con từ bé đến khôn lớn
 Dãi nắng dầm mưa công dưỡng dục
 Banh da xẻ thịt, nghĩa sinh thành  ( Vương ngọc Long)
Cám ơn Cha đã cho một gia đình hạnh phúc: 
 Công ơn cha một đời con nhắc nhở
 Nhưng lòng con ghi nhớ đến trọn đờị.  ( Linh Phương)
Cám ơn Cha Mẹ đã cho làm người, ( gene, giống tốt) may mắn không bị tật nguyền (bẩm sinh), có đôi chân đi trên đường đời, có đôi tay khỏe mạnh làm việc, có đôi mắt nhìn đời, có trái tim yêu thương, có khối óc ích dụng cho cuộc sống. Có niềm tin và nghị lực trong mỗi chặng đường để thấy mình hạnh phúc. 
Mất Cha, mất Mẹ đều là những bất hạnh nhất trong cuộc đời dù ở tuổi nào cũng vẫn là "mồ côi".
 Còn Cha gót đỏ như son.
 Mất Mẹ liếm lá đầu đường
Truyền thống thương mẹ kính cha đã in sâu vào tâm hồn, văn-hoá dân tộc.
 Tu đâu cho bằng tu nhà,
 Thờ Cha, kính Mẹ mới là chân tu.
Thành ngữ " Công sinh không bằng công dưỡng"
 Chúng tôi được cha mẹ cho cả hai điều sinh dưỡng, nuôi dậy. 
 Ơn Cha, nghĩa Mẹ nặng trìu
 Ra công báo đáp, ít nhiều phận con.
Mạnh mẫu đã ba lần dọn nhà tìm chỗ thích hợp và sau này thầy Mạnh Tử là nhà hiền triết. Năm 1952 Bố mẹ phải rời khỏi làng lên Hà-Nội cho chúng tôi được tiếp tục đến trường. Thật đau lòng khi phải xa nơi chôn rau cắt rốn, mồ mả Tổ-tiên. Năm 1954 biết chế độ cộng sản thâm nhập, Bố Mẹ lại một lần nữa vì tương lai quyết định bỏ hết mang các con vào Nam tránh chế độ cộng sản. 
 Năm tư rồi lại bẩy lăm,
 Chân người bỏ phiếu: oái oăm, kinh hoàng  ( Ý Nga)
Câu chuyện kể lại sau năm 1975 bà con ngoài bắc vào thăm đã nói với người nhà còn ở lại: " Ở lại làm gì cho khổ một đời cha, ba đời con ? "
Ông taxi chở người Việt  hải ngoại đi thăm gia đình đã nói: Các ông bà thoát khỏi nước là " Đẻ bọc điều ".
Tổng thống Bush đã khánh thành tượng đài tưởng niệm: trên 100 triệu người đã chết vì chế độ Cộng-Sản. Thoát hiểm tránh khỏi sự tàn ác của cộng sản là một đặc ân nên phải cám ơn tới Cha Mẹ, thời cơ đã cho sống thêm, cuộc đời đổi mới.
Tại miền Nam nắng ấm chan hoà tình thương của đồng bào, hoa Tự-do nở rộ, chúng tôi có đời sống sung túc vượt qua các cửa ải của bậc trung học và đại học.
Trong bản thống kê, nếu được đi học, biết chữ thực may mắn hơn 800 triệu người. Nếu thế giới thu gọn vào 100 người, chỉ có một người có trình độ đại học.
Có một chỗ ở, đồ ăn, áo mặc là đã hơn 70% nhân loại. Nếu lành lặn đã may mắn hơn 10 triệu người bị thương tật. 
Nữ văn sĩ Hellen Keller đã nhận định: " Biết ơn cuộc sống vì có nhiều người đã không được sống hết tuổi trẻ ". Chưa bao giờ bạn đói khát, mất tự-do thì bạn đã hạnh phúc hơn 500 triệu người. 
Tình cảm thương yêu, hiếu thảo với cha mẹ của người Á-đông âm thầm quanh năm suốt tháng. Con cái trân trọng coi đạo hiếu là bổn phận . 
Việt Nam có lễ Vu Lan để nhớ ơn Tổ Tiên, ông bà, ngày cài bông hồng như nhắc nhớ đến người Mẹ còn hay đã mất! .
Tây phương có ngày lễ Cha, lễ Mẹ vì ngày thường mọi người bận rộn học hành, làm việc sinh sống. Một truyền thống tốt đẹp, nhắc nhở đến công ơn Cha Mẹ. 
Năm 1966 Tổng thống Lyndon Johnson ký văn bản công nhận ngày chủ nhật thứ ba tháng sáu, là ngày các con nghĩ đến công ơn của người Cha (Father's day). 
 Tầm quan trọng của người Mẹ đối gia-đình, xã hội để thể hiện lòng biết ơn đến với Mẹ nên năm 1914 được chính thức công nhận. Lễ tôn vinh Mẹ (Mother's day) là ngày chủ nhật thứ hai của tháng năm. 
Theo phong tục của nước cư ngụ các con cháu cũng gửi thiếp với lời cám ơn nồng nàn hay những món quà ý nghĩa tới các bậc sinh thành.
Cám ơn thầy cô dậy dỗ truyền kiến thức để thành người hữu dụng. Unesco vinh danh các tổ chức nhà giáo quốc tế hàng năm vào ngày 5 tháng 10 năm 1691 và tại Hoa-Kỳ là thứ ba tuần lễ đầu tiên của tháng Năm. ( Teacher appreciation week)
 " Không thầy đố mày làm nên"
 Người không học như ngọc không mài...
Ngày nay các trường học thành lập hội để hàng năm thăm hỏi, cám ơn thầy cô đã đóng góp thêm căn bản, hiểu biết vào đời. 
Cám ơn các học sinh đã cho cảm hứng và yêu nghề khi đứng trên bục giảng, lúc về già lại được niềm vui và ý nghĩa của nghiệp " gõ đầu trẻ "
Cám ơn các anh chị em chung vui, chia sẻ cuộc sống , tình cảm anh chị em ruột luôn có trong tâm tưởng mỗi người: thời thơ ấu sống gần gũi, chơi đùa thân thiết. Trân quí khoảng thời gian sum họp gia-đình.
 " Anh em như thể tay chân"
Cám ơn chồng con, cháu, đã cho một đời hạnh phúc 
 " Tạ ơn Anh một đời chung thủy,
 Dù cuộc đời không mãi mãi là thơ"
  ....
 Cám ơn con bên mẹ đến bây giờ,
 Cám ơn cháu yêu bà luôn ngoan ngoãn.  ( Thiên Kim)
Tình yêu là trái chín của mọi mùa, nằm trong tầm tay của mọi người ( Mẹ Theresa)
Cảm ơn họ hàng nội ngoại đã nối vòng tay tình cảm thêm ấm áp cuộc đời.
 Một giọt máu đào, hơn ao nước lã. 
Sự liên hệ họ hàng tự nó mang tính chất thiêng liêng huyết thống.
 Đắng cay cũng thể ruột rà,
 Ngọt ngào cho lắm, cũng là người dưng.
Cám ơn bạn bè cho bao kỷ niệm vô giá của những ngày là học sinh, tuổi thơ trong trắng.
chia xẻ niềm vui nỗi buồn trên đường đời.
Thomas Fuller:  Tình bạn nhân đôi niềm vui và chia xẻ nỗi buồn. 
Bác sĩ Ormish tác giả cuốn sách Love-Survival nói rõ: tách lìa tinh thần gia đình và bạn bè là đầu mối của mọi thứ bệnh tật. 
VJ Nemtro : Trong đời người có những giây phút thật gay go. Khi đó sự cô độc là nỗi bất hạnh lớn, ta cần có bạn bè.
 " Tạ ơn bạn bè tuổi thơ ...mới lớn
 Tạ ơn ai đã đến, mến yêu tôi.
Cám ơn Quê hương, nguồn gốc: Con người sống như cây phải có gốc, như sông phải có nguồn;  có Tổ-Tiên, giòng giống. Đất Mẹ đã ban cho chúng ta những gì có được ngày hôm nay. Tạ ơn những ai đã đi qua trong đời sống , đã đem lại niềm vui, hạnh phúc. 
Một dân tộc hãnh diện về nguồn gốc, đã có đủ sức mạnh để trường tồn dù bao biến cố, đe doạ xâm lăng. Dân số vài trăm ngàn, thời Hồng-Bàng, rồi triêu triệu người qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Các anh hùng dân tộc dựng nước và giữ nước để có một giải đất thật đẹp hình chữ S trải dài từ Nam-quan đến Cà-Mâu. Nước nhỏ bé vẫn tồn tại với văn hóa, tiếng nói và tập tục riêng để phân biệt với các nước và dân tộc khác trên thế-giới. Bảo tồn văn-hóa riêng và dung nạp nét ưu-tú của các nền văn hóa khác. Dân tộc Việt-Nam từ thời lập quốc  đã trải qua trên 4 ngàn năm lịch-sử không mất bản sắc. 
Tri ân công đức Tổ-tiên đã có công khai sơn, phá thạch " Uống nước nhớ nguồn".
 " Những ai đã chết vì sông núi,
 Sẽ sống muôn đời với núi sông"
 Tổ-tiên vẫn chiếm vị trí thiêng liêng trong cuộc sống tinh thần, ý thức con người có Tổ dù sống trên đất nước hay lưu vong. Ấm phúc Tổ-Tiên, đồng bào con Lạc cháu Hồng. Chúng ta cám ơn hàng triệu người đã hy sinh trong thời lập quốc và giữ nước. 
Cám ơn Việt-Nam Cộng Hoà dù ngắn ngủi nhưng không quên cuộc sống chan hòa, nhân ái của tuổi hoa-niên. 
 "Tạ ơn miền Nam hiền hậu nồng nàn,
 Đưa tay đón người anh em nguy khốn."
Cám ơn những người lính VNCH dù trong chiến tranh khói lửa vẫn vững mạnh để " em hậu phương, anh tiền tuyến".
 " Tạ ơn chiến sĩ nơi chốn biên cương,
 Ngày xưa tay súng giữ gìn hậu-phương  ( Bút Xuân)
Cám ơn quê hương Việt Nam đã đón nhận từ lúc sinh ra để lại trong tim bao nhiêu kỷ niệm cả một thời thơ ấu, trưởng thành và hạnh phúc.
Ngày lễ Tạ ơn Thanksgiving của Mỹ.
Tinh thần lễ tạ ơn là một truyền thống cao đẹp ở đất Mỹ. Năm 1863 vị tổng thống thứ 16 Abraham Lincoln ban hành luật: chính phủ công nhận vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư tháng 11 là ngày Thanksgiving ( Tạ ơn). 
Hiệp chúng quốc đã trở thành quê-hương mới của các di dân. 
Tinh thần đón nhận người nhập cư và tạo cơ hội cho người mới tới có cuộc sống ổn định.. Hàng trăm triệu người đã đến đất nước này được đón tiếp giúp đỡ để hội nhập làm nên lịch-sử Hoa-Kỳ. Từ 102 người di dân nay thành hơn 300 triệu, một quốc gia hùng-mạnh nhất thế-giới. 
Cám ơn quê hương thứ hai: nước Mỹ đã giúp tái lập cuộc sống và cho các con cháu một tương lại tốt đẹp, cho người già những ngày tháng bình an. 
 " Cám ơn thăng trầm của cuộc sống
 Đã nếm đủ vị cay đắng, ngọt bùi".
Hiện tại của bạn đang là ước mơ của nhiều người, Mỗi sáng thức dậy hãy nở một nụ cười để trả ơn cho cuộc đời.
Nói về hai chữ Tạ-ơn với những người ta chịu ơn rất nhiều bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời mà không từng mang ơn một hay nhiều người khác trong xã hội.
 " Tạ ơn Trời đất đã cho tôi hoa quả ....
 " Hạt gạo thơm, cảm tạ bác nông phu"
Tạ ơn từ các bậc thức giả, văn sĩ, nhạc sĩ, khoa-học đến các công nhân lao động để cho cuộc sống đẹp từ tinh thần đến vật chất.
 Cám ơn những giòng thơ nhạc 
 Đã làm nên chia xẻ vui buồn
Tri thức con người tiến bộ từ đó khoa-học phát triển cho chúng ta cuộc sống tiện nghi như hiện nay. Khi ý thức lại những tiện ích của cuộc đời, xem như đương nhiên, thường tình khi nào mất đi mới hiểu và ân hận.
 Tự do như muối,
 Hạnh phúc như đường.
Còn đang ăn đủ miếng ngon, miếng ngọt, khó thấy gia trị của hạt đường hạt muối.
Ngoài nhu cầu căn bản đời sống vật chất mà còn cần về tinh thần là quyền làm người, quyền tự-do, vì mọi người ở trong nước đang mơ ước, khao khát.
 Nguyễn Giang, một thanh niên ở trong nước viết về " giấc mơ được đến Mỹ".
Thoát khỏi chế độ cộng sản cũng như được tái sinh một kiếp khác, hãy sống trong hạnh phúc dù cuộc đời không như là mơ. Hãy biết nâng niu và trân trọng từng giây phút đang có trong cuộc đời ngay thực tại, bây giờ và ở đây.
Cám ơn Trời, cám ơn đời, cám ơn người, cám ơn vùng trời đất đã ưu ái cưu mang những ngày khốn khó.
Mỗi sáng thức dậy vẫn có sức khỏe, được sống tự-do là bạn đã may mắn hơn cả triệu người. Hãy bầy tỏ tình cảm với cha mẹ, thương yêu anh chị em, chồng, con cháu, bạn bè. Biết ơn cuộc đời vì bạn có hạnh phúc.
   Tản mạn về cuộc đời và tỏ lòng cám ơn.
     Bùi mỹ Dương
   California những ngày hè : Tháng 7, 8 năm 2014



NHANGỌC * DU SINH HỒI HƯƠNG

Du sinh hồi hương
saigon cho 


Tôi du học Tây về! Câu đơn giản thế nhưng lanh lảnh như tiếng chuông mới đúc. Chữ “Tây” không chính xác về địa lý nhưng chuẩn xác về sự phân chia cấp bậc cũng như cái nhìn trong xã hội. Có điều tôi chỉ đi “Tây” Nga về chứ không “Tây” Mỹ, “Tây” Úc hay “Tây” Đức, Pháp… Cái “thiệt thòi” hôm nay là “ưu đãi” trước kia của Bộ đại học dành cho tôi. Chả gì nước Nga cũng “ông anh cả” của Việt nam – “nước cộng hòa thứ 16 của Liên xô”.
Tôi là kỹ sư kinh tế ở Nga về. Nghe không vang như câu trên. Phải thôi. Kinh tế Nga chục năm nay lu mu, chả ra “kế hoạch quốc gia”, chả ra “kinh tế thị trường”. Sách vở là phương tiện cãi nhau của các nhà “đổi mới”. Năm năm đèn sách nhét thứ đó vào đầu không ngớ ngẩn là may.
Tôi mang chiếc bằng đi xin việc. Đầu tiên tôi mua báo, nghiên cứu “tuyển người”, đánh dấu xanh đỏ những chỗ “khả thi” và bắt đầu gọi điện. Nhà có điện thoại lợi đủ đường. Tuy nhiên, mỗi lần “bắt” được giọng đầu dây kia, hiện tượng này chiếm 30% số lần gọi, mẹ và bà chị dâu đều “ý tứ” xem đồng hồ. Nào tôi có ham “nấu cháo điện thoại” mà tại phí điện thoại “cấu” vào đồng lương gớm quá. Tôi đi Tây, tưởng “kinh tế” cho gia đình mấy năm sinh viên. Nào đâu đúng thời kỳ khó khăn. Việt nam qua thời “tem phiếu” từ lâu mà nước Nga bắt đầu “talon”*. Tháng 2 kg đường, 7 lạng thịt, 2 chai vôtka là tiêu chuẩn sinh viên! “Talon” đường, rượu tạm đủ còn thịt thiếu nặng. Ra chợ, có đấy, nhưng học bổng eo hẹp.
Chẳng nhẽ để con gái chết đói ở đất nước Xã hội chủ nghĩa, mẹ tôi đành tiếp viện. Năm năm “hạch toán” ra chắc cũng lõm của mẹ tôi ối. Biết thân, biết phận, về nước tôi không dám làm mình, làm mẩy “quen ở Tây” thế nọ, thế kia. Chỉ duy nhất cái “màn tra tấn” 6 giờ sáng bị khua bằng đủ âm thanh “nội” “ngoại” là tôi “choáng” hẳn. “Nội” là tiếng mẹ tôi mở cửa sắt đi tập thể dục, chị dâu tranh thủ sáng có nước bơm giặt giũ. Xô chậu “duyệt binh” xủng xoảng ra trữ nước dùng trong ngày. “Ngoại” là tiếng rao bán.
Từ “mỳ nóng”, “bánh cuốn”, “xôi” các loại đến gạo tẻ, gạo nếp “tên tuổi” nghe như tiếng Thổ, hoặc mắm muối kèm mùi khó tả… Điên nhất là ông mãnh “mỳ nóng” sáng nào cũng như “đồng hồ Tây”. Nó đứng dưới cửa sổ tôi gào “mì nóng” lanh lỏi, kết thúc bằng chữ “ròn”. Chao ôi, khâm phục độ nẩy của lưỡi nó. Đồ rằng, cả miền Bắc có mình nó biết phát âm chữ R! Không trốn được những âm thanh đó, tôi chúi đầu vào đống chăn chịu đựng qua “cơn bĩ cực”. Nhưng giờ “thái lai” đến là lúc mẹ tôi đi tập thể dục về. Nhìn con gái còn “giương đò”, bà lại ca “dậy sớm có lợi cho sức khỏe” là lá la… Thôi thà dậy béng cho xong.
Chuyện xin việc không thể gọi điện thoại. Tôi đã qua bài học thứ nhất khi tổng kết thông tin qua điện thoại là con số 0 tròn trĩnh. Mấy người trực điện thoại hoặc nhấm nhẳng hoặc chẳng trả lời câu nào cho ra hồn.
Tôi mò tới “Trung tâm giới thiệu việc làm” và thấy ngay mình là con ngớ ngẩn. Vừa lộ “tốt nghiệp ở Nga về”, họ hỏi ngay: 

– Sao không ở lại, về làm gì?


– Làm việc.

– Việc gì mà làm?

Tôi trố mắt nhìn họ, thầm điểm lại xem mình có vào nhầm chỗ.

– Ở đây không giới thiệu việc à? Sao ngoài kia cả chục người làm hồ sơ?

– Họ làm hồ sơ xin đi ra nước ngoài lao động, làm ăn. Đi Hàn quốc, Libi, Iran… có cả đi Nga đấy. Cô có muốn…

Tôi xua tay cám ơn rồi chuồn thẳng ra cổng.

Bài học thứ hai. Tránh lai vãng ở “Trung tâm giới thiệu mờ ám”. Không khéo bị lẫn vào hàng ngũ các cô gái “sính” chồng Đài Loan. Sau hai bài học, 50% nhiệt tình “phục vụ đất nước” đã đi tong. Tôi chuyển sang “xu hướng” nghe ngóng chứ không đâm đầu làm theo báo nữa. Người thân mong ngóng tôi về sau những năm xa cách, qua 5 tháng, tình cảm cũng vơi đi. Đến mẹ tôi còn sốt ruột khi thấy con gái thất nghiệp nằm chỏng gọng ở nhà. Bà rỉ rả “nhàn cư vi rồi đấy con ạ”. Đúng quá, nhàn đến “rách việc” đây. Sáng chiều cơm nước.
Từ ngày tôi về, tự dưng “Osin” về quê. Chả hiểu bà chị dâu tốt nghiệp khoa kinh tế ở đâu mà giỏi tính thế. Tôi hậm hực cũng chịu, nhăn nhó mẹ tôi chả “hát” nửa tiếng đến ong thủ mất. Bạn bè, đứa có việc đi cả ngày, đứa chưa có việc lại có người yêu, chồng con. Tôi trơ thổ địa, chẳng nhẽ trách ông Trời. May còn dăm ba đứa “lơ lửng giữa trời”. Tối tối tôi xách xe chạy qua nhà chúng tán gẫu, chia xẻ “mánh khóe sống đời”.
Tôi hiểu giờ người ta xin việc là xin vào chỗ có “mầu”. “Mầu” là bổng lộc. Khoản này không thể có ngay khi mới làm mà phải nhích lên “lão làng”. Không phải ai cũng nhấp nhổm lên được. Chỉ những “tinh hoa” thôi. “Mầu” nữa là “mầu đi Tây” theo suất “nâng cao”. Tụi bạn tôi may mắn có việc thấy chí tiến thủ của chúng nhuộm sắc “hướng ngoại”. Chúng cong mông theo các lớp tiếng Anh, tiếng Pháp như lũ “sống gấp”, xem ngoại ngữ là cái “cánh” mang chúng ra bầu trời tự do.
Sau mấy tháng “thất nghiệp” từ một con “Nga ngố” tôi kết hợp tính nói thẳng, nói thật của Tây với ngoa ngoắt của mấy bà hàng rau, hàng thịt mà mỗi ngày hai lần tôi nhẵn mặt thành một dạng “củ chuối” mà mẹ tôi không chấp nhận được. Bạn bè bầu tôi là “huấn luyện viên phụ huynh” tầm cỡ. Từ chỗ mẹ tôi muốn lấy lại hình ảnh đứa con gái út thùy mị của trước ngày đi Tây, chuyển sang tôi “biến” bà phải chấp nhận triết lý “cái gì cũng có thể với con gái mình”, thậm chí là cướp biển! Một kết quả đôi bên cùng có lợi.
Tôi được tự do, mẹ tôi khỏi thấp thỏm khi khuya khoắt. Nhưng một cái lợi nữa mà tôi chưa lường được. Tình trạng “bụi đời” của tôi khủng bố tinh thần cả nhà nên họ huy động toàn bộ các mối quen biết họ hàng từ “bắn đại bác” đến “phi dao” để tìm việc cho tôi. Vào một bữa cơm chiều, ông anh trai yêu quý thông báo một tin quan trọng rằng ông giám đốc, bạn cũ hồi phổ thông, dù mới tìm lại nhưng có nhiều duyên nợ, nhận tôi vào công ty ông ta. Mà đó là công ty nhà nước trăm phần trăm, thuộc Bộ khoa học và Công nghệ môi trường cơ mà.
Cả nhà xôn xao, khởi sắc. Tôi cũng hí hửng như sắp thành “ông nọ, bà kia”. Thêm bài học thứ ba. Muốn xin được việc phải quen biết. Tổng quát, muốn được bất kỳ việc gì đều phải có “quan hệ”. Cứ kiểm chứng bằng những buổi tôi “đánh quả” nhà bạn bè là biết. Chị dâu hay mẹ tôi đi chợ, y rằng bọn bán hàng nó giúi cho rau già, bí xơ, thịt dai nhoách. Không có “quan hệ khách hàng thường xuyên” tôi xây dựng mấy tháng nay làm sao có đồ ăn ngon. Tôi giờ ra chợ mua cả tuần không trả tiền là cứ vô tư. Quen thế, không chừng khi nào cưới, tôi phát đại cho chúng thiếp mời cũng chẳng có gì muối mặt hết!
Ông anh giục tôi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo xin giấy chứng nhận tốt nghiệp làm hồ sơ. Tôi ngoạc mồm cãi “bằng sờ sờ ra còn chứng nhận, chứng nhiếc gì” liền bị cả nhà xúm vào sỉ vả ác liệt. Mỗi người một giọng lên lớp hòng dẹp cái thói “ngông nghênh” của tôi.
Mười giờ sáng tôi có mặt ở cổng Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” có khác, nhà cửa của Bộ đàng hoàng, khang trang. Khu vườn thênh thang giữa thủ đô tấc đất, tấc vàng nhìn sướng mắt. Tôi tiến đến khu nhà 5 tầng, bắt đầu một chuỗi những “xin lỗi chú”, “xin lỗi cô” và cuộc “việt dã” theo cầu thang. Giờ tôi mới biết người Việt nam nào có tính “nhúng mũi” vào chuyện người khác. Tất cả các câu hỏi của tôi đều được trả lời u ơ “không rõ”, “hình như”. Tôi khùng người vì leo thang nhưng ngộ ra vì sao mẹ tôi về hưu rồi còn tập chạy(!).
Cuối cùng tôi cũng mò ra phòng phụ trách lưu học sinh tốt nghiệp. Tôi gõ cửa dõng dạc, bước vào sau tiếng hừm. Tôi chào lịch sự dù chỉ nhận lại chiếc gật hay lay động cơ cổ. 

– Cô cần gì?


Một trong hai người đàn ông đang đọc báo hất hàm hỏi.

– Thưa, cháu xin chứng nhận tốt nghiệp để làm hồ sơ xin việc.

– Về bao giờ?

– Dạ, gần một năm.

– Sao giờ mới lên đây?

– Dạ… chẳng ai bảo cháu phải lên ngay cả.

– Cô này vô tổ chức, nguyên tắc về nước phải báo cáo ngay, còn chờ ai bảo.

Bị mắng “ngứa tai” lắm nhưng bài học cả nhà dạy hôm qua còn nguyên nên tôi im như hến. Tôi rút bằng, sổ điểm cùng giấy sứ quán cấp trình ông ta.

Ông ta cầm tấm bằng, không đọc mà lật qua, lật lại. Lật chán ông quay nhìn tôi. Nhìn như đánh giá mặt hàng, không khác gì tôi chọn cá. Thậm chí còn bĩu môi. Tôi nghĩ, ông này mua cá mà “thể hiện” thế, bọn hàng cá chửi cho tanh người. Nghĩ gì thì nghĩ tôi vẫn làm mặt khép nép. Chợt ông ta ném bẹt cả bằng lẫn giấy tờ của tôi xuống bàn, hỏi gọn lỏn:

– Học gì? Ở đâu?

– Dạ kinh tế, trường Plekhanov ở Matxcơva.– Học từ năm nào? Tốt nghiệp năm nào?

– Dạ… những điều đó có cả trong bằng rồi, sao chú còn hỏi.

– Tôi hỏi là việc của tôi. Cô không trả lời được phải không?

Ông ta ngẩng nhìn tôi mãn nguyện. Chả hiểu ông ta phát minh được cái quái gì từ mấy câu hỏi trẻ con đó mà mắt ông chợt ánh lên ranh mãnh.

– Cô học hành cái gì. Sang chỉ lo đi buôn, bằng thì mua.

Tôi há hốc mồm còn chưa tin ông ta đang “vu cáo” mình. Ông ta dồn tiếp:

– Cô nói tôi nghe, bằng này cô mua bao nhiêu?Đến nước này tôi chịu hết nổi. Bao kinh nghiệm cãi nhau với mấy bà ngoài chợ chợt loang loáng trở về. Tôi vênh mặt không kém ông ta, mắt cũng “đèn pha ôtô” xoáy áp đảo:

– Chú nói bằng này giả? Chú nói bằng này mua? Nghĩa là bảng điểm cũng giả, giấy chứng nhận của chú trưởng phòng Lưu học sinh Matxcơva cũng mua nốt. Vậy chú làm ơn ghi cho cháu mấy chữ vào đây. Tiện ký và đóng dấu luôn cho cháu. “Nói có sách, mách có chứng”, mai kia có người sang Matxcơva, cháu kiểm chứng lời chú.

Vừa nói tôi vừa rút xoạch tờ giấy và cây bút đặt trước mặt ông ta. Ông ta đứng bật dậy, há hốc mồm chẳng khác gì tôi lúc trước, lắp bắp:– Cô… cô ăn nói với tôi thế hả. Giọng lưỡi con buôn…

– Chú nhìn người như thần. Cháu học kinh tế chú nói đi buôn. Bằng chú lật qua mà biết giả, thật kém gì người buôn “xanh”…

Ông ta đập bàn đánh rầm:

– Cô tưởng đây là chợ, cô phát biểu vô tổ chức… biết đây là đâu không?

Tôi suýt nữa cũng học bà bán thịt bò kèm 70% thịt trâu ngoài chợ chống tay vô hông, “quạc” lại:

– Cháu biết… thì chỉ có chợ mới nói “giả, thật, giá bao nhiêu” chứ.Mặt ông ta đỏ rần như người có triệu chứng huyết áp “quá tải”. Tôi trót “cưỡi lưng hổ”, tự biết không đường lui. Cuộc đấu khẩu sẽ đến đâu nếu không có tiếng cười của người đàn ông thứ hai trong phòng. Cả hai “đối thủ” cùng dồn mắt sang ông ta. Người đàn ông chậm rãi tới bên tôi. Nét mặt hòa nhã nhưng mắt giấu vẻ khoái chí sau cặp kính.
– Cháu nói với chú Đạo thế là không được. Chú Đạo người lớn chẳng chấp cháu “trẻ người, non dạ” làm gì. Đứa nào mới đi Tây về chẳng thế. Đưa bộ copy đây chú vào sổ. Chiều mai lên lấy giấy ở phòng 32. Thôi, chưa xin lỗi chú Đạo còn chờ gì?

Nghe vậy là tôi đủ “thông minh” hiểu ý. Một trọng tài kinh nghiệm thổi còi đúng lúc nhắc hai cầu thủ “fair play”! Tôi chuyển tần số lời nói:

– Chú Đạo bỏ qua cho cháu mấy lời láo lếu vừa rồi. Ở nhà cháu vẫn bị mẹ mắng suốt vì tội cãi bướng mà.“Chú Đạo” kia mặt vẫn đỏ nhưng lẽ nào không “miễn cưỡng bắt tay đối thủ”. Ông ta lầm lỳ chẳng ra gật, ra lắc ngồi xuống cầm tờ báo đọc tiếp. Tôi lại gần người đàn ông mang kính để ký vào sổ, khẽ nói nhỏ:

– Cháu cám ơn chú nhiều.

Ông ta mỉm cười với tôi:

– Molodec! (Cừ lắm!)Bữa cơm chiều, tôi “tường thuật” lại chuyện “chú Đạo”. Chị dâu tôi khoái bất ngờ tới mức trước mặt mẹ chồng dám vỗ đùi đôm đốp. Tôi ngờ rằng bà này cũng từng bị cái Bộ kia “đì” rồi nên giờ được “trả thù quá khứ”. Mẹ và anh tôi nhăn nhó. Mãi sau mẹ mới chép miệng:

– Mày thật chả khác bố mày ngày xưa.

Bố tôi ra đi sớm khi tôi mới 10 tuổi. Tôi chẳng còn nhớ nhiều về bố. Nhưng tôi tin, nếu ông còn, ông sẽ xoa đầu con gái rượu chứ chẳng mắng đâu.Đầu tuần, theo lời ông giám đốc tôi đến cơ quan làm việc. Không biết nếu tôi đi làm dâu mẹ tôi có lo như tối hôm trước ngày tôi đi làm. Bà đi ra nhắc, đi vào dặn. Anh trai tôi răn đe:

– Mày làm thế nào cho tao còn gặp lại được bạn bè. Bớt mồm đi. Người ta hỏi, trả lời cho ngoan ngoãn. Lớn rồi, nghe hỏi phải biết ý họ mà trả lời.

Con bạn thân đọc “lesson” cho tôi lĩnh hội. Nào bánh kẹo, thuốc lá, trà ra sao, chào ai cô chú, ai anh chị… Đặc biệt khoản “ngoại hình”:– Mặc đầm cho nữ tính. Đầm dài bớt ganh ghét của đồng nghiệp nữ nhưng mất cổ động viên nam. Độ ngắn của đầm tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa.

Tôi lục tung valy tìm ra chiếc đầm xanh. Màu hơi ngớ ngẩn nhưng có vẻ nữ tính. Độ dài của nó vừa khéo để không sexy cái đầu gối củ lạc, lại chứng tỏ tính kín đáo của bằng Đại học.Tôi đi sớm, lởn vởn chờ phòng số 4 có người. Theo lời giám đốc, tôi xông tới “làm quen”. Ở nhà mẹ vẫn khen tôi có đức “trơ tráo”. Tôi còn nhiễm tính “tự tin mù quáng” của người Nga nên chả bối rối chút nào khi bước vào.

– Chào các chị, các anh – Tôi hơi nghiêng người và nở nụ cười bài bản – Em là Thu, anh Bình giám đốc nhận em vào làm công ty mình từ hôm nay.

Năm người, định vị năm bàn quay nhìn tôi. Một giây, hai giây… năm giây. Tôi chợt thấy nụ cười trên môi mình vô duyên trước 10 chiếc mắt dọi vào.Từ hôm về nước, tôi xem nhiều phim Việt nam và không chịu được vẻ vô cảm của các “sao” điện ảnh. Giá họ học được vẻ mặt của năm người đang chiếu tướng tôi đây chắc nền điện ảnh Việt nam sẽ phất kém gì Holywood. Sang giây thứ sáu, muốn hay không nụ cười của tôi cũng không le lói hơn được nữa. Tôi đứng đực ra chờ phản hồi nhưng hình như họ cố làm vẻ nghễnh ngãng. Tôi thầm rủa số mình đi đâu cũng không xuôi xẻ.
– Sao tôi chả biết gì nhỉ?

Một giọng nam chất kim vang lên phá tan bầu không khí “mặc niệm”.

– Ông Bình làm những chuyện lạ đời. Đùng đùng cái gì cũng theo ý mình, hay dở thế nào cho người khác đổ vỏ. Giọng nữ ồ ồ cằn nhằn.

– Em có nghe loáng thoáng – giọng cô gái khá trẻ ngồi bàn gần cửa – Anh Bình nói nhận người về. Sắp tới công ty mình ký hợp đồng với công ty thiết bị y học của Nga.
– Ôi dào, viện này thiếu gì kỹ sư học Nga về. Toàn thằng chẳng làm được việc gì lại còn nhận thêm. 
Giọng kim vừa nẫy nhưng tôi đã phát hiện ra của người đàn ông ngồi góc phải. Dù cửa sổ mang ánh sáng ban mai vào nhưng khuôn mặt ông vẫn không vì thế bớt già nua và nhăn nhó như quả táo Tàu. Kinh nhất là cặp mắt kẻ chỉ, khó đăm đăm đang tranh thủ “miệt thị” tôi.Tôi vẫn đứng vì chả có ai định mời mình ngồi xuống chịu trận. May hôm nay tôi mặc chiếc đầm xanh. Tuy ngớ ngẩn nhưng theo các nhà “tâm lý học”, màu sắc có tác dụng giải tỏa. Màu xanh lờ lợ đó như lá chuối đặt trên thùng nước đang sánh qua sánh lại. Khổ nỗi “chiếc lá chuối” này không mảy may tác dụng “tâm lý” ông giọng kim. Ông chán bâng quơ, chuyển sang chĩa mũi dùi vào tôi:

– Ai bảo cô tới đây?Kinh nghiệm ở Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dạy tôi chẳng nên ngạc nhiên trước câu hỏi thừa. Ngoan ngoãn như lời ông anh dặn, tôi thỏ thẻ:

– Dạ thưa, anh Bình dặn sáng nay em tới làm quen với các anh chị.

Tình hình nghe ra chẳng sáng sủa hơn sau câu trả lời nhún nhường của tôi. May cô gái gần cửa bước tới kéo ghế mời tôi. Tôi đầy cảm kích. Tôi liếc tìm bộ ấm pha trà, lấy mấy gói bánh kẹo, thuốc lá ra đặt trên bàn, mạnh dạn hỏi cô gái còn đang đứng gần tôi:

– Cho mình mượn mấy chiếc đĩa được không?“Đồng minh trong hy vọng” của tôi nhanh nhẹn mở tủ lấy đồ và giúp tôi. Tôi thầm cám ơn Trời. Dù thái độ của tôi giờ không còn tự tin như trước nhưng tôi vẫn đủ “khả năng” bê ra từng bàn mời các vị đang chiễm chệ đọc báo và bình luận chuyện không đâu. Tất nhiên họ uống trà. Tất nhiên họ gặm nhấm bánh kẹo và coi sự phục vụ của tôi là “tất nhiên” khỏi cần cảm ơn. Còn tôi “tất nhiên” phải quên thói lịch sự của Tây mà coi đó là văn hóa Việt nam!
Người đàn ông ngồi gần cửa sổ chợt cắt ngang câu chuyện về giá xe máy Thái lan đang xuống:

– Em học ngành gì bên Nga?

– Dạ em học Kinh tế.

– Lại Kinh tế – giọng kim lần này hơi méo có lẽ do chiếc kẹo Hải châu còn mắc trong răng – Đâu cũng nhan nhản kỹ sư kinh tế. Mang tiếng học hành mà chả biết “đếch” gì. Làm hợp đồng viết ngu bỏ mẹ. Cháu ông Viện phó học Kinh tế vừa vào Viện, con bà Hoài phòng “Công nghệ nguyên tử” cũng đang làm hợp đồng bên đó.
Tôi khẽ nhăn mặt. “Lại gặp bạn “chú Đạo” rồi. Giờ mà ông hỏi giá bằng Đại học, mình phải hô bao nhiêu đây?”.– Cô ở đâu đến đây?

Chiếc kẹo đã chui tọt vào họng nên câu hỏi vang lên lanh lảnh. Một câu hỏi đơn giản như bài học đầu tiên của chương trình học ngoại ngữ, ông có hỏi bằng tiếng Anh tôi vẫn trả lời vô tư.

– Em ở Hà nội ạ.

Những khuôn mặt “đầy ấn tượng” hiện ra. Cáu kỉnh là của ông giọng kim:

– Ai chả biết Hà nội. Quen ai mà tới đây?– Á… – hơi ngượng vì sự “chậm hiểu” nhưng tôi chữa ngay- Dạ, em chỉ quen anh Bình giám đốc thôi ạ.

– Quen mỗi ông Bình mà xin được vào Viện lớn thế này. Giọng ồ ồ thắc mắc kèm theo cái nhìn nghi vấn rất “nữ tính”.

Tôi còn quen thêm được ai từ ngày về nước ngoài mấy bà buôn ngoài chợ.

– Thế cô con ai?

Cái hất hàm đầy tính “khảo sát” của ông giọng kim chĩa vào tôi. Tất nhiên lần này tôi đã “thấu” câu hỏi. Ông anh tôi chả dặn phải xem ý người ta mà trả lời là gì. Tôi dõng dạc:

– Dạ em không con ai cả ạ.Có bịt tai tôi cũng nghe tiếng cô gái “đồng minh” cười váng lên. Tiếng ho khục khục giấu tiếng cười “thiên nhiên” là của ông ngồi kế cửa sổ, anh chàng trung niên từ đầu chưa nói gì chợt rút kính lau lấy, lau để. Chỉ còn lại hai khuôn mặt của hai chất giọng “ngược đời” là thộn ra. Giọng kim rít lên:

– Cô học đâu kiểu nói trêu ngươi thế hả? Cô biết tôi là ai không?Tôi nghệt mặt chả hiểu mình có tội gì. Tôi quay sang “đồng minh” cầu cứu nhưng cô ta còn mải cười đến mức chạy bắn ra hành lang, vội vàng lao ngay vào ông Bình đang bước tới. Cô khẽ “Ối”, ngượng nghịu. Bốn người còn lại kéo ghế đứng lên chào đồng loạt. Chỉ có tôi đang ngẩn ngơ vì “quả mắng” nên ngồi tại chỗ khẽ lúng búng.
– Chào mọi người! – Giọng sang sảng đúng chất Sếp – Làm quen vui quá. Nhân viên mới có quà cho anh em hả. Được đấy.

Quay sang bên, ông giám đốc nói:

– Anh Trung tổ chức và chị kế toán lên phòng tôi có việc cần bàn nhé!

Hai người đứng dậy theo ông lên phòng. Tôi toát mồ hôi. Thôi xong. Ông anh nhắc “khéo lời với ông trưởng phòng tổ chức mới hòng được vào biên chế”. Loạng quạng thế nào tôi “trêu ngươi” ông ta rồi. Vụ này khéo đứt!Ngày sau, tôi đến, chẳng có chỗ riêng của mình trong phòng, chẳng có việc cụ thể. Giám đốc bảo làm quen công việc nhưng có ai nói năng gì với tôi đâu. Cô “đồng minh” trở nên giữ kẽ. Mặt ai cũng như bức tường. Cảm tưởng tôi bị tẩy chay. Tôi ra hành lang nghe chim sẻ chíu chít trên nhánh xà cừ, buồn bã như giữa đảo hoang. Vài ngày sau, giám đốc chỉ tôi phòng nhỏ, kêu dọn dẹp, kê bàn vào lấy chỗ làm việc. Sáng 8 giờ đi, trưa cơm nhà, chiều lại công ty. Việc duy nhất là ngồi và ngó qua cửa sổ. “8 giờ vàng ngọc” thoải mái tiêu. Chán, tôi lò dò xuống phố thăm tình hình Model của Hà nội.
Từ ngày tôi đi làm, dù tập sự không lương, mẹ yên lòng hẳn. Tôi thành “thất nghiệp” toàn phần. Hiếm hoi gặp bọn bạn chẳng biết kể chuyện gì. Chẳng lẽ kể chuyện “năm anh em trên chiếc xe tăng” hở ra là nã đạn vào tôi. Hay kể chuyện Sếp sáng đảo qua công ty vài phút là biến. Thỉnh thoảng, ông định vị trong phòng thì toàn thấy “họp… kín”. Có lần không nén được tò mò, tôi ghé tai nghe trộm. Hoá ra các bố chơi “tá lả”. Tôi chán ngấy đóng vai người thừa. Ho hoe tính chuyện xin thử chỗ khác đã bị ông anh dạy thế nào là đức kiên tâm “trường kỳ kháng chiến”. Tiền tiêu do mẹ tài trợ đủ ăn sáng, bơm xe, tình rỗng tuyếch, công việc đuổi ruồi.
Tôi tù túng trong mọi ràng buộc từ nhà đến công ty. Mẹ tôi nhắc khéo chuyện “gia đình”. Tôi tỉnh queo:

– Mẹ chi tiền. Con ra chợ coi thằng nào “sạch nước cản” mua về làm chồng. 

Bà chán. Tôi buồn, tôi nhớ nước Nga. Khi ở đó tôi chỉ nhìn thấy những điều đen tối mà chê nhưng khi về rồi, tôi biết, tôi thiếu nó. Cho dù ngày đó có bơ vơ, có khó khăn, khắc nghiệt nhưng tất cả thật rõ rằng để mình phải vượt qua. Còn sống nơi quê hương sao tôi lạc lõng. Ai giúp tôi mài bớt những sù sì, góc cạnh để có thể lăn tròn trong xã hội này?
Tối thứ bảy, tôi ngồi nhà xem vở tuồng “tân cổ giao duyên”, ngoan như bà góa thủ tiết với chồng. Chuông điện thoại kêu, tôi uể oải nhấc.

– Thu hả?

– Thu đây, ai đó?

– Còn nhớ Thắng “mập” không? Tao đây.

– Ôi Thắng, mày đang ở đâu vậy? Tôi reo lên khi nhận ra thằng bạn thân từ ngày học phổ thông đến suốt năm tháng ở Nga.– Matxcơva chứ ở đâu. Mày thế nào, nghe tụi nó bảo đi làm rồi hả?

– Làm khỉ gì, chán muốn bỏ. Tao đã thấy lời mày khuyên ở lại là “chân lý”.

– Thế mày còn thích đến với “chân lý” không?

– Thích cũng phải qua ối “cửa” mới tới được “chân lý”. Còn mày thế nào?

– Tao gọi về hỏi mày chịu qua giúp tao phụ trách phần kế toán cho công ty của tao ở Matxcơva không? Đồng ý tao gửi giấy tờ về làm hộ chiếu. Tao điểm ra chỉ mày đủ khả năng, đúng nghề và tính “bà la sát” của mày mới trị được bọn trong công ty. Nghĩ sao?Tôi bất ngờ chẳng nói được lời nào. Hơn một năm qua, tôi đã biết, ở Việt Nam “nghề” sáng giá nhất là “nghề đi Tây”, “nghề xuất ngoại” dù ngắn hạn, dài hạn. Những ai chê “nghề” này chắc chắn là Sếp. Mà Sếp chỉ chê “dài hạn” vì đi lâu dễ “vênh cạ” chứ “ngắn hạn” Sếp OK đầu tiên.

– Ê, chán nước Nga chưa mà im như thóc vậy?

– Không… tao đang tính – tôi lúng túng không biết nên nói kiểu gì để hợp “phong cách người Hà nội”- mẹ tao lo đi nữa sẽ “ê sắc ế”…

– À… mày định lấy chồng kiểu gì tao không biết nhưng nếu định lấy thằng yêu mày thì lấy tao đi. Tao yêu mày lâu rồi.Lần này tôi “cấm khẩu” hoàn toàn. Thắng chợt chuyển giọng:

– Nói thật đấy.

Trời ạ, mẹ tôi nói cấm có sai “Ngưu tầm ngưa, báng bổ như mày, chỉ gặp thằng ngang ngửa”. Nhưng dù “củ chuối” cỡ nào tôi cũng không thể tưởng tượng ra được màn tỏ tình “mày” “tao” qua điện thoại quốc tế!

– Thu ơi, suy nghĩ đến trưa mai nhé! Thời Edison chỉ cho suy nghĩ 5 phút thôi mà -Thắng cười hì hì- không đùa đâu, 100% nghiêm túc. Hẹn mai!Máy bay cất cánh, mảnh đất quê hương chao nghiêng. Dòng sông Hồng kia rồi, quanh năm đỏ đậm phù sa. Hà nội li ti, nhấp nhô mái ngói. Tôi lại ra đi lần nữa. Chút nhơ nhớ, bâng khuâng về Hà nội, về mẹ.

Giọng cô chiêu đãi viên Nga nhắc người ngồi cạnh đeo dây an toàn nghe quen như mới hôm qua. Nhưng hình như vẫn có gì là lạ. Có lẽ, lạ vì không ngơ ngác như khi xưa sang học.

Con đường phía trước sẽ không trải thảm, sẽ không ít khó khăn, nhưng tôi biết, ở đó tôi có thể sống và làm việc mình mong muốn. Cảm giác tự do ngọt ngào.

Hà nội mờ dần qua làn mây mỏng. Quê hương ơi, ta sẽ về như tìm bóng cây giữa con đường chang nắng.

Sẽ về để thêm động lực ra đi. Về để hiểu ta Người Việt Nam và Quê hương ngàn đời vẫn một! 
Nha Ngoc

No comments:

Post a Comment