Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 26 October 2016

SƠN TRUNG * CỘNG SẢN GHÉT - CỘNG SẢN YÊU

SƠN TRUNG * CỘNG SẢN GHÉT - CỘNG SẢN YÊU





CỘNG SẢN GHÉT, CỘNG SẢN YÊU

SƠN TRUNG


1. BIẾN CHẤT HAY BẢN CHẤT?

Nếu lúc đầu tốt, sau xấu thì gọi là biến chất. Còn từ đầu đến cuối đều xấu thì đó là bản chất. Ban đầu mình thấy nó tốt sau mới nhận ra nó xấu tệ vì mình ngu và đối phương quá che đậy gỉỏi. Đó là Trần Đức Thảo, một tay thông minh tài trí đến già mới thấy cộng sản xấu!


Cộng sản cực kỳ tàn ác. Chủ trương căm thù, lý thuyết giai cấp đấu tranh đã làm cho con người cộng sản trở thành man rợ. Chúng giả nhân nghĩa, nêu cao chủ trương xóa bỏ giai cấp, xậy dựng đại đồng thế giới với những hành động cực kỳ dối trá và dã man:

II. CỘNG SẢN GHÉT  TƯ BẢN BÓC LỘT 

Năm 1917, Lenin cưóp chính quyền, trừ nước Anh đã tiến lên tư bản, còn hầu hết theế giới còn trong tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Không có tư bản sao có công nhân?
Vậy mà Lenin, Stalin đã tạo nên đảng Cộng sản tung hoành khắp thế giới.

Tại Việt Nam, địa chủ là ai? Địa chủ phần lớn là trung nông hay bần nông đuợc đôn lên cho thành địa chủ theo đúng tiêu chuẩn 5% dân số của Mao. Thật ra, CCRĐ chỉ là bình phong để cộng sản cướp tài sản nhân dân và khủng bố nhân dân để cho mọi người sợ hãi mà tuân theo chính sách cộng sản bắt dân làm nô lệ.

Cộng sản chống bóc lột ư? Chính cộng sản sau khi cướp được chính quyền thì trở thành giai cấp thống trị, toàn dân trở thành giai cấp bị trị. Về nông nghiệp, chúng lập các HTX, người khỏe hất công điểm hạng nhất là một ký thóc ( hai bơ gạo), cuối mùa mới được lãnh. Hai bơ gạo chỉ ăn hai bữa còn đói, còn tiền nhà, thuốc men, cá mắm, quấn áo không có. Mỗi năm chỉ ba thước vải thô phải bỏ tiền ra mua:

Mỗi năm ba thước vải thô,
Lấy gì che kín cụ Hồ hỡi em?


Gian ác nhất là thuế nông nghiệp. Các thời trước nông dân phải nộp tô khoảng 10- 25% (1), trong khi cộng sản bắt nông dân nộp 70 % lợi tức.. Nguyễn Chí Thiệp viết:

Thuế đánh trên 70% trị giá sản xuất, nhà nước chỉ cho phép mỗi nhân khẩu giữ lại 15 kg thóc mỗi tháng. Còn bao nhiêu phải bán với giá quy định, mười lăm ki lô thóc mỗi đầu người mỗi tháng, qui ra chưa được 10 kg gạo nên nông dân đói và ăn độn quanh năm. Sau khi tất cả phải vào hợp tác thì nhà nước qui định chế độ bình công chấm điểm, đời sống nông dân càng tồi tệ hơn, nông dân quần quật làm suốt ngày công điểm cũng không được qui định cao bằng cán bộ quản lý, mỗi hợp tác xã nông nghiệp phải gánh một số cán bộ đảng viên không sản xuất. Sản phẩm sau khi thu hoạch trừ các khoản phí tổn, thuế khóa, đóng góp nghĩa vụ, những khoản giao tế, lễ lạt đón tiếp phái đoàn. Cuối cùng người nông dân không còn được chia bao nhiêu trên sản phẩm chính họ làm ra.(Trại Kiên Giam)

Từ 1945, Cộng sản mạt sát thực dân sưu thuế nặng nề nhưng từ chính phủ Hồ Chí Minh cho đến nay người dân phải đống hằng trăm thứ tiền cho cộng sản. Luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết:
Nước Mỹ với hơn 300 triệu dân đóng thuế, họ chỉ phải nuôi 2,7 triệu nhân viên Nhà nước. Việt Nam với 90 triệu dân, phải nuôi hơn 2,1 triệu nhân viên Nhà nước và quan chức đảng cộng sản.
Ngân sách hàng năm của đảng cộng sản chưa bao giờ được công khai cho những người dân đóng thuế được biết. Trong khi đó ở nhiều nơi trụ sở, trang thiết bị làm việc của các cơ quan đảng còn to lớn, hoành tráng hơn cả trụ sở của các cơ quan chính quyền.

Đa số người dân Việt Nam còn nghèo, chỉ đủ ăn, mặc, chưa được chăm sóc đầy đủ về y tế, văn hóa, giáo dục, xã hội,….. và càng chưa có được các điều kiện để hưởng thụ các thành quả phát triển. Trong khi đó, hàng phải nộp cả trăm loại thuế, phí, quĩ,… khác nhau.(Người dân Việt Nam: Một cổ ba tròng
. nguyenvandai's blog http://www.rfavietnam.com/node/2814 )


Công nhân, viên chức nhỏ lương chỉ đủ mười ngày hay nửa tháng. Khoảng 1980. cộng sản đưa ra kế hoạch lao động XHCN, đưa dân qua Nga, Hung, Tiêp bán sức lao động để trả tiền chíến tranh. Một số lương của họ bị khấu trừ để trả nợ quốc tế, một số vào tay Cộng sản. Thời thực dân mộ phu, dân ta được trả tiền trước, không bị khấu trừ khoản nào.

Ngày nay, cộng sản đưa dân ra nước ngoài lao động cũng có mà trộm cắp, đĩ điếm cũng có, chính cộng sản tổ chức và cướp tài sản nhân dân. Gần đây, cộng sản nghĩ ra một chiêu thức mới là bắt những người Việt đi "lao động nước ngoài" đóng tiền bảo hiểm Xã Hội 22%

NLĐ tham gia BHXH bắt buộc ở 2 chế độ hưu trí và tử tuất. Mức đóng hằng tháng bằng 22% tiền lương tháng đóng BHXH của NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài (trường hợp đã tham gia BHXH bắt buộc); bằng 22% của 2 lần mức lương cơ sở (trường hợp chưa tham gia BHXH bắt buộc). NLĐ có thể đóng 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng/lần hoặc đóng trước một lần theo thời hạn hợp đồng. (http://nld.com.vn/cong-doan/bhxh-bat-buoc-doi-voi-lao-dong-xuat-khau-chua-thu-da-be-tac-20160102221815771.htm

Nghị định 115/2015/NĐ-CP “hướng dẫn luật bảo hiểm xã hội (BHXH) về bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa được nhà nước CSVN ban hành. Nghị định sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2016 cho tất cả người Việt Nam đi xuất khẩu lao động. Người đi lao động nước ngoài sẽ phải nộp mỗi tháng 22% tiền lương cùng các khoản trợ cấp cho nhà cầm quyền CSVN gọi là “phí bảo hiểm xã hội”. Nhưng những quyền lợi về bảo hiểm họ chỉ được hưởng khi về hưu hoặc chết. Vì đây là phí bảo hiểm xã hội bắt buộc nên người đi lao động nào cũng bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ này.
So sánh với lao động trong nước người đi lao động nước ngoài phải đóng BHXH với một tỷ lệ rất lớn, lên tới 22% lương cùng các khoản phụ cấp. Trong khi người trong nước chỉ đóng 10,5% với sự hỗ trợ của công ty.

( Vét cạn túi người tha hương cầu thực. https://chantroimoimedia.com/2015/12/27/vet-can-tui-nguoi-tha-huong-cau-thuc/
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/lao-dong-lam-viec-o-nuoc-ngoai-phai-dong-bao-hiem-xa-hoi-3321928.html

Và công nhân làm cho các hãng xưởng ngoại quốc tại Việt Nam bị lột bao nhiêu? Xuất khẩu lao động, đưa di dân lậu, tổ chức trộm cắp, dĩ điếm đếu là chuyên môn kinh doanh của cộng sản. Thật ra đó cũng là một hình thức buôn bán nô lệ của đảng cộng sản Việt Nam

Mặc Lâm trong bài phóng sự "Đâu là thực tế của vấn đề Lao động Xuất khẩu?" trên RFA cho biết theo những số liệu chính thức của Sở Lao Động và Thương Binh Xã Hội Thành Phố Hồ Chí Minh thì hiện nay trên địa bàn thành phố có 52 công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, trong đó có 8 công ty thuộc quyền quản lý của UBND Thành Phố Hồ Chí Minh số còn lại thuộc quyền quản lý của các bộ ngành đoàn thể thuộc trung ương và các UBND các tỉnh thành phố. Tuy nhiên rất nhiều công ty tư nhân không thuộc sự quản lý của nhà nước kinh doanh lĩnh vực xuất khẩu lao động vì đây là một dịch vụ không tốn kém tiền đầu tư nhưng nguồn lợi thu vào rất đáng kể.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Labour_export_and_its_seriuos_confront_MLam-20070403.htmlhttp://

Tờ Thông Tin Pháp Luật ngày 11-12- 2009 cho biết cả nước hiện nay cả nước có hơn 150 doanh nghiệp có chức năng XKLĐ, các doanh nghiệp này mở các trung tâm và cơ sở một cách tràn lan và không có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ từ các doanh nghiệp, khiến cho tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra ngày càng phổ biến
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/12/11/4210/

Vì nghèo khổ không việc làm, và vì nghe theo những tuyên truyền xảo trá của cộng sản, dân chúng đã đua nhau đi lao động, lấy chồng Đài, chồng Hàn làm gái ở khắp nơi và nhập cư bất hợp pháp.

Cũng theo RFA trong bài trên, trung bình mỗi lao động nộp đơn xin đi lao động nước ngoài phải nộp cho công ty 1200 đôla và nhiều phí phụ thu khác như phí huấn luyện ngoại ngữ, phí huấn luyện chức năng làm việc, khám sức khỏe...

Nhân viên Công ty Hướng Dương cho đài RFA biết :Trong số tiền họ nộp trước khi đi là khỏang hơn 5000 đôla, đã bao gồm hai năm phí quản lý của Việt Nam theo quy định của Bộ cho những người đi lao động nước ngoài dù nước nào chăng nữa thì phải nộp phí này một năm là một tháng lương cơ bản. Sang bên kia thì các bạn sẽ phải chịu khấu trừ những khoảng theo quy định của Đài Loan chẳng hạn như tiền khám sức khỏe định kỳ cứ mỗi ba năm thì khám 4 lần, tiền bảo hiểm y tế, tiền phí dịch vụ Đài Loan.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Labour_export_and_its_seriuos_confront_MLam-20070403.htmlhttp://


III. CỘNG SẢN GHÉT TƯ SẢN, TIỂU TƯ SẢN, VÀ PHONG KIẾN


Trong chiến tranh, tại chiến khu và vùng cộng sản chiếm đóng, cộng sản tự hào là giai cấp bần nông, vô sản, khinh miệt trí thức và nhục mạ họ bằng danh từ " tạch tạch sè" (tiểu tư sản). Khốn khổ cho dám văn nghệ sĩ dân Hà Nội phải ăn bốc, nói tục, mặc áo rách, không đánh răng rửa mặt, thậm chí có anh xung phong lấy vợ bần nông để giải phóng giai cấp mình. Ngay khi vào Saigòn, một số áo dài biến mất, Cộng sản tự hào văn hóa rừng rú của họ, ghét phong cách "văn hóa đồi trụy Sài gòn" nên chúng đã cắt quần những ai mang quần bó, cắt tóc những ai để tóc quăn Một nữ anh thư Sài gòn đã phản ứng dữ dội bằng cách cởi truồng ra. Từ đó cộng sản cũng biết xấu hổ mà bỏ trò độc tài man rợ ấy.


Trong khi dân chúng khốn khổ, tệ trạng xã hội nảy sinh nhanh chóng như việc thầy lấy cắp xe đạp học trò, cô giáo bàn quà trong lớp, thầy giáo đạp xe xích lô, trong khi con gái Trường Chinh có biệt thự nguy nga tại Đà Lạt, hàng triệu cán bộ cao cấp có tiền gửi ngân hàng ngoại quốc, mua nhà tại ngọai quốc, mua xe hơn triệu Mỹ kim. Trong quốc hội Trung cộng, đa số là tư sản đỏ. Tại Việt nam, những vô sản Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt,... có hàng tỷ đô la..


Mao Trạch Đông tuyên bố sau này vàng chỉ để lót cầu tiêu nhưng thực tế Cộng sản yêu vàng , đô la và thích hưởng thụ .  Sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, người ta mới khám phá ra những cung vàng điện ngọc của các ông vua vô sản! Chúng ghét tư bản, thực dân và tư sản nhưng thích những ngôi nhà của thực dân, tư sản, thich tôi tớ nịnh hót và hầu hạ, Khi ở trong rừng xanh núi đỏ, không ai biết bọn họ sinh sống ra sao, nhưng về Hà Nội năm 1954, mặt thật cộng sản lộ rõ.

Vũ Thư Hiên cho chúng ta biết sự thật về lòng tham vinh hoa phú quý mà người cộng sản chỉ trích là tàn dư phong kiến, tàn dư thực dân, đế quốc.


Vừa về tới Hà Nội mỗi vị lãnh tụ đã chiếm một dinh thự khang trang, của Tây hoặc của các nhà giàu bỏ chạy vào Nam, mỗi nhà là một hành dinh với đầy đủ các bộ phận phục vụ, thư ký, lái xe, bảo vệ, cần vụ, cấp dưỡng. Các vị làm việc tại nhà, các thư ký, giao thông viên chạy như đèn cù giữa các hành dinh để các vị liên lạc với nhau.

Khó chịu nhất là cái sự phải gò mình vào trong cái gọi là dân chủ tập trung. Bất cứ quyết định nào của Trung ương cũng là chân lý, là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt, cấp dưới chỉ có việc học tập cho thông để thực hiện.

Không còn đâu bóng dáng của sự bình đẳng giữa những người cùng chung một chiến hào
 ( ĐGBN, Chương 3)

Cộng sản cũng thich nhà lầu xe hơi. Khi ở ngoài Bắc, nhưng cộng sản nông dân thấy nhà ngói vườn cây là mỉa mai là địa chủ. Khi vào miền Nam thấy nhà cao cửa rộng, các anh nông dân căm thù bảo là bóc lột. Nhưng các anh anh bần nông chẳng hiểu tâm tư tình cảm các vị đại cán. Một ông Việt Cộng cao cấp thích biệt thự của Nguyễn Văn Vĩnh đã kết tội Nguyễn Văn Phổ , con trai Nguyễn Văn Vĩnh, một tay cộng sản nằm vùng là gián điệp tống giam rồi tịch thu biệt thự này.

Sau 1975, không thấy cộng sản nói đến XHCN, ăn tập thể, ở tập thể. Bọn họ khoái có tư sản. Sau 1975, cộng sản chiếm miền Nam, đại cán chiếm các biệt thự ở Sai gòn, Huế, Đà Lạt, sau đó bán rẻ các nhà cửa cho các đàn em. Một cộng sản được năm bảy nhà,tha hồ lấy tiền, sống huy hoàng. Rồi chúng cho ngoại quốc thuê, có khi được ngàn đô la mỗi tháng. Vợ con cộng sản làm chủ ngân hàng, chủ khách sạn, chủ đồn điền, có trong tay hẳng trăm triệu, hàng tỷ đô la.Và vợ con chúng cũng ở vào vị trí giám đốc, thứ trưởng, bộ trưởng, đại biểu quốc hội, không còn ai khai là thành phần vô sản. Bên Trung Quốc cũng thế. Chỉ tội nghiệp cho thanh niên nam nữ nghe công sản tuyên truyền ra ngoại quốc hàng tháng lãnh mấy chục ngàn đô la, đã cầm coố nhà cửa bán ruộng đất , nộp cho cộng sản để đi theo chương triình lao động nước ngoài, lấy chồng ngoại quốc, đi bán dâm dưới nhãn hiệu du lịch, đi ăm trộm, ăn cắp dưới nhãn hiệu học nghề do cộng sản tổ chức, có tổ chức liên quan quan đến công an, bộ ngoại ngoại giai, công ty hàng không, hải quan.Tất cả cũng vì mộng giàu sang, phú quý mà bị bán làm nô lệ. Cộng sản bán nước và buôn dân là như thế đó.

Trong khi công sản ghét xã hội Tây phương, xã hội miền Nam đồi truỵ, như Đào Duy Anh vào Nam thấy con trai miền Nam để tóc dài thì mắng mỏ là đồi trụy, nhưng đa số dân Bắc rất khoái xã hội miền nam tự do.

Một sinh viên bộ đội học Đại Học Tổng Hợp Saigon về hè thăm quê Bắc , gặp tôi, lúc bấy giờ còn học tập chính trị tại đại học Văn Khoa, tôi hỏi sao anh vào sớm vậy? Anh nói: "Thưa thầy, ngoài Bắc chán lắm. Con gái một con mà vú nhão nhẹt và lép kẹp , da nhăn nheo như bà già, còn đàn bà trong Nam, 40-50 vẫn tươi mát như con gái mười tám"!


Trần Đĩnh ca tụng cái Ng. học ở Đức về đi xăng đan cao gót, cậu bảo bàn chân con gái tự nhiên trông thành một đường arabesque - uốn lượn quá đẹp… Đúng, nhưng cậu mới thấy cái chất vật lý của bàn chân con gái gói bọc trong những quai da. Tớ còn thấy ở đó động thái ưỡn dướn của cơn mê nhục cảm.(ĐC, 497)


Trần Đĩnh chỉ thấy một cái Ng. đi giày cao gót mà ca tụng ầm lên, còn trong Nam có cả triệu đôi chân với động thái ưỡn dướn đầy nhục cảm! Và hàng triệu cái mông có gânnổi cộm rất khêu gợi!

Các ông Cộng sản oang oang cái miệng độc thân, hy sinh hạnh phúc cá nhân cho dân tộc, nhưng bác Hồ, chú Lê Duẩn đều năm thê bảy thiếp mặc dầu các ông luôn ghét phong kiến, tư sản, đề cao giai cấp tính, đảng tính.

Theo giáo sư HỨA HOÀNH, anh Ba đã có vợ cả , ở quê nhà Quảng Trị, tên Cao Thị Khê.
( Wikipedia ghi tên bà cả là Lê Thị Sương (25 tháng 12 năm 1910 - 6 tháng 8 năm 2008) kết hôn năm 1929 ở quê. Có bốn người con: Anh Ba. cũng có đệ nhị phòng tên là Võ Thị Sảnh, con ông Võ Văn Kính, người Quảng Nam, đồng nghiệp công nhân hỏa xa. Sau vào Nam mê cô Đỗ Thị Thúy Nga ( nay tên là Nguyễn Thị Vân, đã viết kiến nnghị triệt hạ Võ Nguyên Giáp), con điền chủ Cần thơ, dòng Đỗ Hữu Vị. Bọn trung ương cục miền nam làm bổn phận ma cô nhưng cô không ưng lấy lão già nhà quê. Lê Duẩn lập kế mời cô vào chiến khu họp rồi ép liễu nài hoa.

Năm 1955, cô Nga ra Bắc, bà Đỗ Thi Khê đem con đến gặp cô Nga, bà cả hung dữ làm ầm ĩ khiến đảng xấu hổ phải đưa cô Nga đi Trung quốc học chính trị, thỉnh thoảng Lê Duẩn sang thăm. Nhự vậy là Lê Duẩn phạm tội lợi dụng chức vụ cưỡng hiếp phụ nữ, lường gạt gái tơ và tội song hôn.? Ngoài ra Lê Duẩn cũng có nhiều phụ nữ khác nữa chứ không phải là đạo đức cách mạng phòng không gối chiếc. Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà cũng đòi trung ương cục cưới vợ, cũng là vợ bé trẻ đẹp con nhà điền chủ, không phải giai cấp vô sản.


Việt cộng tuyên truyền trong Nam dân chúng bị Mỹ Ngụy bóc lột nên đói khổ. Đến khi vào Saigon, cán bộ mới thấy Saigon đẹp đẽ biết là bao.
Trần Đĩnh thuật lại cảm tưởng của ông khi vào đến Đà Nẵng, một vùng trời bình yên và tươi sáng hiện ra, và ông nói đến những tặng vật mang từ ngoài Bắc vào:

Đêm miền Nam đầu tiên nghỉ ở Đà Nẵng. Hành khách ngủ vạ vật trên đường quanh xe. Sáng sớm, mở mắt tôi thấy một vùng loá trắng, tinh khiết, ngỡ như mênh mang ngay ở trên đầu: pho tượng Phật. Chợt thấy lòng êm ả lạ. Nhờ ánh sáng an ủi mà một đức Phật bằng lặng và nguy nga như tảng băng Nam cực kia trôi đến ban cho. Sau biết đó là pho tượng Phật Quan Âm lớn nhất Việt Nam ở Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt. Hay thật, sao đêm đầu tiên gửi mộng trên đất miền Nam tôi lại ở Bãi Bụt!

Tôi tới nhà, cô em út trông thấy tôi đầu tiên.
Cách đây hai mươi năm, ở Đại học Bắc Kinh, tôi nhận được một bưu thiếp, sản phẩm đặc biệt của cái thời “tạm chia cắt.” Hân, mười sáu tuổi, viết: “Em mơ thấy anh được Nobel, à, nhưng anh có biết Nobel là gì không? Em khoe với bọn bạn là anh rất giống Marlon Brando và Anthony Perkins, ôi, chúng nó ghen quá, đã đẹp trai lại giỏi nữa chứ. À, nhưng anh có biết hai diễn viên Mỹ này không?”

Nay Hân ngẩn ra nhìn mãi cái người tiều tụy đang cố rút chân ra khỏi đống bị, sọt, can, ba lô tha vào cứu tế chất đầy sàn xích lô. Gắng rút được chân thì một chiếc dép nhựa nâu văng lên thành một parabol hoàn hảo của một chiếc lá đa già, mỏng sắc, nó liệng vồng lên qua đường rồi rơi đánh đạch một cái trước khung cửa gỗ tăm tối của nhà tôi: tiền trạm của tôi lại là cái gót rỗ kỳ khu nằm trình diện kia! Khi xỏ lại chân vào nó, tôi chợt thấy mình đúng là khố dây đi đất. Tôi không có nền móng gì ở dưới chân. Nhẹ bỗng. Trống trơ. Trừ tình gia đình, bố con anh em… Tôi đồng thời cũng thấy một ngỡ ngàng lớn trên mặt em gái (ĐC, 483)


Trần Đĩnh nói đến cảm giác của các cán bộ cộng sản vào Nam trong những năm đầu 1975 :

" Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây thì mọi người cũng lại xuýt xoa trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá.
Một sáng P. K. bên giáo dục chuyển sang làm báo mời tôi ăn phở Phú Gia. Lúc chờ, anh nói: - Chỉ với anh thì tôi mới nói thật cái này: nhà tôi là tư sản anh ạ.
Thấy vẻ sung sướng trên mặt anh, tôi mừng thay nhưng cũng lo. Tôi nói khéo sẽ mất hết. K. nói: - Tôi đã mách cách phân tán cả rồi. Sao để họ lấy không được chứ? Trả lời tôi hỏi trong ấy họ sống thế nào, anh nói: - Đủ hết nhưng nay nhà tôi đã cho nghỉ máy lạnh. Giả nghèo. Buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét. Ối trời, anh biết không, rộng, thoáng, mát., sạch… Buồng trưởng phó ban báo ta thua xa…(ĐC, 480 ).


Nguyễn Chí Thiệp cũng trình bày cảm tưởng của ông chú từ Băc vào Nam

Cuộc sống của gia đình người anh, một thương gia hạng trung ở Đà Nẵng đã làm chú choáng ngộp, phương tiện vật chất, xe hơi, xe Honda của các cháu, TV, tủ lạnh, quạt máy đầy đủ tiện nghi, tương quan trong gia đình tôn ti trật tự cha con, chồng vợ, anh chị em không khác thời nhỏ chú được dạy và giờ đây chú mới lại tìm thấy. Chú Bình đã khóc ngon lành trước sự kinh ngạc của mọi người.
( Trai Kiên Giam, ch.2)

Cộng sản ghét phong kiến. Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh hô hào đánh đổ phong kiến, lập chế độ dân chủ. Đó là những lời tuyên truyền xảo trá. Marx chủ trương " vô sản chuyên chính" , Stalin lập kiểu cách " sùng bái cá nhân" thì làm sao có dân chủ? Trong chế độ cộng sản, người ta đề bảng  "Cộng Hỏa Sô Viết" ," Cộng hòa nhân dân Trung Quớc, " Việt Nam dân chủ cộng hòa" và "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam" nhưng đâu có cộng hòa, dân chủ! Đảng nắm quyền, lãnh tụ đảng quyết định mọi sự không hỏi ý kiến hội đồng chính phủ, lãnh tụ đảng ngồi lỳ suốt đời, chỉ có cái chết mới thay đổi ngôi vị. Vỉ vậy tranh chấp, chém giết trong đảng, Đặng Tiểu Bình đề ra tuổi hưu cho các lãnh tụ. Nhưng gì đi nữa, các chức vụ quan trọng từ Tổng Bí thư, bộ trưởng, giám đốc đều là phe phái mạnh của đảng. Họ đưa vơ con, anh em ra nắm chức vị quan trọng. Họ vẫn theo lệ " cha truyền con nối". Ai bảo cộng sản ghét phong kiến?


IV. CỘNG SẢN XÓA GIAI CẤP


Marx cuồng tín và nhiều ảo tưởng.Ông tin rằng vô sản sẽ thành công, sẽ đem lại tự do, ấm no và hòa bình. Người cộng sản lại càng cuồng tín và tự hào về chủ nghĩa Marx bách chiến bách thắng cho nên họ càng say sưa thực hiện các chương trình không tưởng bất chấp tốn nhân tài vật lực và sự phản đối của nhân dân.

Milovan Djilas nhận định về chủ nghĩa Marx như sau:
Nhưng ảo tưởng lớn nhất chính là ảo tưởng rằng cùng với việc công nghiệp hoá và tập thể hoá nghĩa là cùng với việc thủ tiêu sở hữu tư bản chủ nghĩa, Liên Xô sẽ trở thành xã hội phi giai cấp. Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử ..[...].Cách mạng cộng sản và hệ thống cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình trong một thời gian dài. Tương tự như vậy, quá trình hình thành giai cấp mới không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn, bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể. Một hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể, hay như thường gọi là sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa là cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, nhưng thực ra đấy chính là hình thức sở hữu của tầng lớp quan liêu chính trị. Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng bình phong quyền lợi của toàn dân tộc. (GIAI CẤP MỚI III )

Richard Pipes viết như sau về giai cấp mới (Nomenclatura ) ở Liên Xô:
Các viên chức cao cấp của Đảng và chính phủ, vẫn thường được gọi là tầng lớp Nomenclatura, xuất phát từ đây; họ không chỉ độc chiếm các chức vụ có nhiều quyền lực mà còn có những đặc lợi không thể tưởng tượng nổi, đấy chính là một giai cấp bóc lột mới. Có chân trong tầng lớp này là được đảm bảo một địa vị xã hội vững chắc và trên thực tế địa vị của họ cũng mang tính cha truyền con nối. Khi Liên Xô sụp đổ, Nomenclatura có 750 ngàn người, nếu tính cả giai đình thì giai cấp này có tổng cộng 3 triệu người, nghĩa là 1,5% dân số, gần tương đương thành phần quí tộc phục vụ dưới thời các Sa hoàng thế kỉ XVIII. Họ cũng có bổng lộc y như các lãnh chúa thời xưa. Đây là lời của một người trong tầng lớp tinh hoa đó:


“… Nomenclatura sống như trên một hành tinh khác. Như trên sao hoả. Vấn đề không chỉ là những chiếc ô tô hay các căn hộ cao cấp. Đây là sự đáp ứng ngay lập tức những ước muốn đỏng đảnh của bạn, lúc nào cũng có một lũ nịnh thần, chúng tạo cho bạn khả năng làm việc mà chẳng phải lo nghĩ gì. Những viên chức cấp thấp trong bộ máy sẵn sàng làm bất cứ những gì bạn muốn. Tất cả các ước muốn của bạn đều được thực hiện. Bạn có thể vào rạp hát bất cứ lúc nào, có thể bay thẳng từ các khu săn bắn của bạn đến Nhật Bản. Cái gì cũng có mà lại chẳng phải khó nhọc gì… Giống như một vị hoàng đế: bạn chỉ cần giơ ngón tay lên là xong.Các đảng viên thường, “bọn nịnh thần”, ngay dưới thời Stalin cũng đã đông lắm, trở thành đầy tớ cho tầng lớp ưu tú. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III ,5)


Thật vậy, Cộng sản muốn san bằng giai cấp nhưng chính họ đã tạo ra giai cấp mới .Vũ Thư Hiên cho chúng ta biết một sự thật nguồn gốc văn minh Trung Cộng;

Chiến thắng Cao-Bắc-Lạng (1950) không chỉ xóa sổ hai binh đoàn cơ động Le Page và Charton, giải phóng một vùng rừng núi rộng lớn, nó còn mở tung cửa biên giới phía Bắc, chấm dứt tình trạng cô lập của nước Việt Nam kháng chiến.


Ngay lập tức sau khi biên giới hai nước được nối liền, người anh em cộng sản phương Bắc đã viện trợ cho nước Việt Nam kháng chiến đủ thứ - lương thực, vũ khí, quân dụng. Cùng với các thứ hàng hóa thiết yếu, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hẳn lên với những điệu Ương ca tưng bừng, những buổi chiếu bóng lưu động ngoài trời với những bộ phim hấp dẫn : Bạch Mao Nữ, Nam Chinh Bắc Chiến, Chiến Sĩ Gang Thép...Chúng tôi được phát bát men, ca men thay cho cái gáo dừa khổ hạnh của nhà chùa. Trên ngực chúng tôi chói sáng huy hiệu Mao chủ tịch.


Chẳng bao lâu sau tôi phát hiện ra rằng kèm theo những niềm vui mới, sự nối liền biên giới Việt-Trung còn đem đến cho chúng tôi những điều khó chịu.


Ðập vào mắt chúng tôi là sự phân biệt phẩm trật kỳ cục trong Giải phóng quân. Ðàng sau khẩu hiệu "tất cả để phục vụ cách mạng", những anh lính trơn và hạ sĩ quan sống như trâu ngựa, cúc cung tận tụy phục vụ cấp trên, bảo gì làm nấy, như những cái máy. Cuộc cách mạng Việt Nam khởi đầu bằng một lối sống khác hẳn, làm cho chúng tôi sững sờ trước những cảnh tượng khó hiểu nọ. Chúng không phải chỉ khó hiểu mà còn khó chịu. Chúng tôi không phải quá ngu để không thấy được Ðảng Việt Nam hoàn toàn tin theo hình mẫu Trung Quốc, do đó nếp sống của quân đội Trung Quốc anh em sẽ là nếp sống tương lai của quân đội Việt Nam. Lần đầu tôi được thấy tận mắt trong quân đội cách mạng cũng có lính hầu là ở trạm Quảng Nạp, một trong cửa ngõ vào ATK từ ngả Thái Nguyên. Trước đó tôi không bao giờ hình dung có người đi làm cách mạng chỉ để hầu ai đó. Trong quân đội Việt Nam cũng có các vệ sĩ , hồi mới kháng chiến còn gọi là gác-đờ-co nhưng họ hoàn toàn không phải là lính hầu. Cơn sốt rét rừng bất chợt buộc tôi phải nằm lại trạm này đã cho tôi có dịp quan sát mấy đoàn cố vấn Giải phóng quân đi ngang. Những cố vấn Trung Quốc, thường là cấp tướng, đến Việt Nam mang theo cả đoàn lính hầu nhộn nhịp, nào bảo vệ, nào cần vụ, nào cấp dưỡng, nào giám mã. Khi cố vấn lên đường công tác, anh cấp dưỡng quảy nồi niêu xoong chảo lên vai, anh cần vụ lỉnh kỉnh chăn màn gối đệm trên vai, anh giám mã chạy tới cúi gập mình xuống làm cái kê cho cấp trên đạp lên lưng mình mà leo lên ngựa. Cố vấn đến nơi cần nghỉ ngơi thì cần vụ kê giường trải nệm, bày ra nào chậu nào thau cho cấp trên rửa mặt rửa chân, cấp dưỡng te tái lo nấu cơm nấu nước, bảo vệ lăm lăm súng đứng gác, giám mã te tái đi cắt cỏ ngựa. Răm rắp, răm rắp, không chê vào đâu được.


Nhìn cảnh đó tôi vừa ngạc nhiên vừa ghê tởm. Có lẽ không có quân đội nào trên thế giới có thứ lính hầu khốn khổ khốn nạn như lính cần vụ Trung Quốc.


Ăn uống trong quân đội Trung Quốc cũng phân biệt rõ rệt theo cấp bậc, hay nói cho đúng hơn, theo đẳng cấp. Lính trơn cho tới cấp chỉ huy trung đội thì ăn tiêu chuẩn đại táo, tức là mức ăn phổ thông, thấp nhất. Trên đại táo là trung táo, dành cho cấp chỉ huy đại đội tới tiểu đoàn. Tiểu táo là mức ăn dành cho cấp trung đoàn trở lên. Cao nhất là đặc táo, dành riêng cho các nhà lãnh đạo, để đãi khách, bữa nào cũng như tiệc.


Nỗi kinh ngạc của chúng tôi kéo dài không lâu - cả về mặt này quân đội Việt Nam cũng nhanh chóng tiếp cận quân đội đàn anh. May mắn thay, cái sự phân biệt các thứ táo tồn tại không lâu, và ở mức độ thấp hơn nhiều. ê ngoài mặt trận không ai dám liều lĩnh sao chép nguyên bản cái trật tự đẳng cấp kỳ cục ấy. Trước mặt người lính là kẻ thù xâm lược, người lính có thể nổi giận. Mà ở chiến trường thì chẳng ai biết được người lính nổi giận sẽ hành động thế nào. Ðiều chắc chắn là sức chiến đấu của quân đội sẽ giảm sút.( ĐGBN, Chương 9)


Tôn ti trật tự của xã hội mới được thiết lập ngay từ những ngày đầu chúng tôi từ chiến khu về Hà Nội.  Một thí dụ nhỏ : theo quy định trong quân đội, từ binh nhì tới chỉ huy trung đội phải mặc áo đại quân có hai túi trên, vai áo có đệm dày (để mang vác) với nhiều đường chỉ máy cho bền, tôi không đếm có bao nhiêu đường, lính tráng gọi là "ba mươi hai đường gian khổ". Cán bộ từ cấp bậc đại đội trở lên được mặc áo không có "ba mươi hai đường gian khổ", thêm hai túi dưới, gọi là đại cán.

Cán bộ dân chính, cũng theo quy định, phải mang đại cán nhưng khác màu bộ đội. Ðó là thứ áo cổ đứng cài đủ cúc, được những ông phó may gọi là kiểu Tôn Trung-sơn . Khi lệnh này ban ra đoàn quay phim chúng tôi đang ở thành phố Nam Ðịnh vừa giải phóng. Trên không kịp cấp phát quần áo, người trong đoàn được lĩnh tiền tự đi may. Tôi không thích cái kiểu Tôn Trung-sơn, bèn dùng tiền may quần áo thường : áo sơ-mi, quần ximili. Thế là sóng gió nổi lên, tôi bị phê bình gay gắt về tội vô kỷ luật. Ðành phải thành khẩn nhận khuyết điểm trước tập thể, hứa sẽ may một bộ đại cán đúng quy định, tôi mới được buông tha.

Kỳ cục nhất, buồn cười nhất là chuyện quy định về sử dụng xe cộ. Cấp cục, vụ được đi chung xe Mốt-cô-vích (Moskovich). Cấp thứ, bộ trưởng được đi xe Pobeđa (Pobeda), đi riêng, với rèm che hai kính hông. Cấp ủy viên Trung ương đi xe có che thêm rèm ở kính hậu. Còn các ủy viên Bộ Chính trị, Ban bí thư đi xe Von-ga (Voga), thêm rèm ở hai kính cửa trước. Lãnh tụ tối cao, tổng bí thư sang hơn nữa, có Chai-ka (Tsaika). Khi tiếp khách hoặc trong những dịp khánh tiết thì dùng xe Din (Zil) bọc thép có kính chống đạn. (ĐGBN, Chương3)


Tại Việt Nam càng ngày cộng sản lộ hình những giai cấp mới. Các cộng sản gộc được phân chia khu vực hưởng thụ tùy theo cấp bậc. Họ có nhà thương riệng, cửa hàng riêng, bần cố nông, công nhân đừng có hòng bước chân vào:

Tôn Đản là chợ Vua Quan,
Nhà Thờ là chợ những gian nịnh thần,
Đồng Xuân là là chợ thương nhân,
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.


Tôn Đản là chợ vua quan
Vân Hồ là chợ trung gian nịnh thần
Bắc Qua là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng"

V. CỘNG SẢN GHÉT TRÍ THỨC


Thời chiến tranh, vô sản lên ngôi, vô học là tinh hoa dân tốc, là trí tuệ đỉnh cao của loài người. Người ta ghét trí thức, mỉa mai chúng là "tạch tạch sè" Ai ma mang bảng hiệu " tạch tạch sè" là suốt đồi khốn khổ khốn nạn. Nhưng thực tế, sự thù ghét đó là do mặc cảm tự ty, là do lòng ghen ghét, thấy người có học thì sinh lòng đố kị. Tính xấu cá nhân trở thành quan điểm chính thống của thế giới cộng sản. Họ tự ty cho cả giống cộng sản vì cậu Ba lãnh tụ của họ chỉ học lớp ba trường làng. Trong khi Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim... đỗ nọ đỗ kia mới vào trường Thực dân, anh học trò lớp ba trường làng mà cũng đòi học trưởng Thuộc Địa ư? Lại đòi học nội trú nữa! Oach quá đ mất!Rõ là đũa mốc chòi mâm son! Vì thấy tủi hổ cho nên cậu Ba mới chôm danh hiệu và tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc của các ông Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh là những cử nhân tiến sĩ lừng danh!

Rồi câu va bọn tay sai hô hoán là bác học trường Quốc Học mấy ngày, giáo viên trường Dục Thanh mấy ngày, học trường Công nhân ở Saigon mấy ngày, nghe đầy đủ oai phong trí thức và vô sản toàn khoa! Sang Nga, bác chỉ học loanh quanh vài tháng chi đó rồi bác và đồng bọn khoa khoang bác học Trường Đông Phương bên Nga. Bà Sophie Quinn Judge tìm hoài mà chẳng thấy tên bác!Vì thấy Âu Mỹ, các chính trị gia ai cũng Tiến sĩ, bọn Việt Cộng ở Paris cũng thổi ống đu đủ giới thiệu cậu cũng là tiến sĩ nọ kia! Rồi ngày nay, xấu hổ quá nên cộng sản đồng loạt phong cho nhau hàng chục ngàn tiến sĩ ma! Ngày xưa họ tự hào bần cố nông, nay họ tự hào:

" Cha là ông tú / chú là ông nghè"

rất oai phong! Ai bảo cộng sản ghét khoa bảng!

Cùng một lúc, cộng sản mang tính tư ty và tự tôn.Họ tự tôn vì chủ nghĩa Marx gọi họ là giai cấp tiên phong, có nơi gọi họ là giai cấp lãnh đạo. Dù ngu hay thông minh, ai học qua chủ thuyết Marx-Lenin là có tài xuất quỷ nhập thần, di sơn đảo hải. Bởi vậy, Lernin, Stalin. Mao, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trần Đức Thảo, Trương Tửu rất tự cao, tự đại! Đó là tính tự tôn toàn cầu của cộng sản. Kẻ ngu được cầm quyền thì càng hống hách, khinh miệt trí thức để trả thù. Tại sao Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 nêu trí thức đầu bảng tội nhân?
Trí phú địa hào,
Đào tận gốc
Trốc tận rễ!


Bùi Công Trùng đã nói với Vũ Thư Hiên:

”Cháu nhớ lấy, ở đời dốt nát với hiểu biết như nước với lửa. Họ dốt (tức các nhà lãnh đạo), đã thế lại không chịu học, thánh nhân phải học sao còn là thánh nhân, thành ra đã dốt lại càng dốt thêm. Dốt ghét giỏi là lẽ thường tình. Trí thức nước mình còn khổ, chừng nào thằng dốt còn đè đầu thằng giỏi. Cái đó là bi kịch không phải của một mình nước ta mà của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Bác già rồi, số tận rồi, nghĩ mà thương các cháu”.( ĐGBN, ch.14)



VI. CỘNG SẢN GHÉT MỸ


Chủ nghĩa cộng sản là đối chọi với chủ nghĩa tư bản cho nên từ Marx cho đến Mao Hồ đều căm thù Mỹ. Liên Xô và Trung Cộng ganh với Mỹ, con ếch muốn bằng con bò, ra sức sản xuất cho hơn Mỹ nhưng dục tốc bất đạt. Khi Nixon qua Liên Xô, Trung Cộng, cả hai đón tiếp niềm nở, không ai tỏ ra vẻ tẩy chay Mỹ cả! Tẩy chay sao được khi Mỹ hứa hện bỏ tỷ đô la vào túi họ Mao!  Trần Đĩnh cho biết cái bề ngoài chống Mỹ của cộng sản ẩn tàng bên trong sự khát khao chơi với Mỹ . Ông viết : "Chưa biết chửi khỏe Mỹ cũng là giấu nỗi thèm chơi với Mỹ.(ĐC, ch.34)

Năm 1975, dân Nam bỏ nuước ra đi, cộng sản kết tội họ phản quốc , chạy theo "Mỹ Ngụy" . Sau  LHQ cho tiền, Cộng sản mới thả tù nhân, cho đi theo chường trình "Ra đi trật tự". Các  sĩ quan Miền Nam trước khi ra đi, được cộng sản dạy về lòng yêu nước, và cho nghe bài" Chùm khế ngột " của Đỗ Trung Quân! Nhưng ô kìa sao năm 1979, cộng sản đuổi " nạn kiều" mà một số dân Việt ăn theo cũng tìm đường cứu nước qua Lạng Sơn, Cao Bằng hay Mông Cái để qua Trung Cộng, rồi đến Hồng Kông và cuối cùng tìm cách qua các nước tư bản! Và cũng kỳ lạ, khoảng 1990-2000, Đông Âu , Liên Xô sụp đổ, các lao động XGCN hầu hết là con ông cháu cha không trở về phục vụ cờ đỏ sao vàng mà chạy qua Đức, và các nước tư bản. Tại sao các ông bà, anh chị này được đảng giáo dục trong lòng XHCN  lại khoái tư bản, mà nhất là nước Mỹ!

Cũng sau năm 1975,  học sinh Miền Nam được học tiếng Trung Hoa, tiếng Nga, nhưng con cán bộ Bắc Kỳ nhất thiết phải học tiếng Anh.  Các cán bộ cha mẹ đến trường hùng hổ bắt nhà trường phải cho con cái họ học tiếng Anh để đi làm nô lệ các nước tư bản chứ không chịu ở nhà làm chủ đất nước đói nghèo!
Đài RFA cho hay hiện nay 39% bố mẹ Việt đầu tư tiền bạc cho việc học ngoại ngữ của con. Con số này đứng thứ hai khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chỉ sau Hàn Quốc (46%)
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/WomenMagazine/learning-english-for-life-chaning-hv-03132016124501.html
Tại sao không học tiếng Nga, tiếng Tàu?

Vì thấy đường lối chống Mỹ và kinh tế chỉ huy thất bại, Đặng Tiểu Bình phải trở lại tư bản chủ nghĩa. Trở lại cũ mà hai đảng Trung Cộng và Việt Công hoan hô đổi mới! Thế là mở cửa cho Mỹ và tư bản đầu tư. Việt Cộng cũng theo thầy Trung Cộng mở cửa:

Ngày xưa chống Mỹ chống Tây,
Ngày nay chống cửa rước ngay Mỹ vào!

 Trung Cộng và Việt Cộng tỏ vẻ kiêu hùng nhưng anh Việt Cộng chắc cũng hiểu rõ  câu tục ngữ  Việt Nam:
Gần nhà giàu mỏi miệng ăn cốm.
Gần anh kẻ trộm, ốm lưng chịu đòn!

Gần Trung Cộng tàn bạo ác gian Việt Cộng pghải chịu đựng vì đã bị Trung Cộng điểm huyệt.

Sự thật ngày nay, Trung Cộng, Việt Cộng đều di dân sang Mỹ, cho con du học Mỹ, gửi tiền ngân hàng Mỹ, mua nhà cửa đất đai ở Mỹ. Mặc dầu một số là gián điệp nhưng đa số là ngán cộng sản lắm rồi, phải tháo chạy thôi! Bọn cộng sản gộc ăn tiền Trung cộng và sợ Trung Cộng trong khi chính họ đã chuẩn bị nước rút sang các nước tư bản. Cụ thể là Nguyễn Tấn Dũng.



Ôi lòng người tráo trở, lờng bọn Cộng sản lại tinh ma, quỷ quái hơn. Những điều ông Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ chí Minh nói đều là dối trá.

Lần nữa, chúng ta thấy những vĩ nhân của chế độ cộng sản đã nhận định rất đúng về chủ nghĩa cộng sản mà họ đã kinh nghiệm.


Mikhail Gorbachev nói : "Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá. 
(I have devvoted half of my life for communism. Today, I am sad to say that The Communist Party only spreads propaganda and deceives ).


Aleksandr Solzhenitsyn viết : "Trong một xứ sở của chúng ta, dối trá không phải là một thứ đạo đức mẫu mực mà là một loại cột trụ cho quốc gia.
(In our country the lie has become not just a moral category but a pillar of the State ).

___

CHÚ THÍCH


(1).Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm trong 1955-1956::
Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng.
Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.
Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm.

(1b) Tư vấn mức tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp. https://luatminhkhue.vn/tu-van-luat-dat-dai/tu-van-muc-tien-thue-su-dung-dat-nong-nghiep-.aspx
(2). Người dân Việt Nam: Một cổ ba tròng. nguyenvandai's blog
http://www.rfavietnam.com/node/2814


No comments:

Post a Comment