Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday 24 October 2016

MÔI TRƯỜNG -THÁNG TƯ ĐEN -

NGUYỄN HỮU VINH * MÔI TRƯỜNG

Thảm họa môi trường: đằng sau là một sự thật không thể che giấu

nguyenhuuvinh's picture
Thảm họa đang tăng dần


Thảm họa đầu độc môi trường sống ở Miền Trung đã ngày càng tăng và chưa có thời điểm dừng lại. Các loại sinh vật biển đã chết và đang tiếp tục chết. Không chỉ ven bờ, mà cả những loài động vật biển ở tầng nước sâu như cá voi cũng đã từ giã cuộc đời với biển để phơi xác ở vùng biển các tỉnh Việt Nam.
Không chỉ có cá, mà các loài thủy sinh, ngao sò, ốc hến... chim chóc cho đến rừng ngập mặn đã được phát hiện đang chết. Đầu tháng 4/2016, báo chí đã lên tiếng về 26ha rừng ngập mặn được trồng 25 năm nay chắn sóng chỉ còn trơ gốc. Tại các đảo Quảng Bình, chim chóc không còn, những xác chim tan rữa trên đảo. Thậm chí, người ta không còn dám xuống kiểm tra xem những loại rong biển, san hô có còn tồn tại được không.
Nhưng, người dân biết một điều: Nước biển đã và đang chứa một lượng hóa chất cực độc có thể giết người. Người dân lo tích trữ muối ăn, cả hệ thống du lịch biển mùa hè đang có nguy cơ tê liệt, các chợ hải sản biển vắng teo vì không ai dám mang sinh mệnh của mình để đùa với các "bí mật nhà nước".
Không chỉ có thế, ngoài các sinh vật biển con người cũng đã mất mạng vì nhiễm độc từ biển, điều "xưa nay hiếm". Người ta có thể chết vì ngộ độc khí ở đồng bằng, bị nhiễm độc từ rừng, từ nhiều nơi khác, nhưng ở biển, bị nhiễm độc thì hầu như rất ít xảy ra ở Việt Nam. Nhưng điều đó đã xảy ra rất cụ thể và hết sức nguy hiểm.
Những công nhân lặn biển ở Formosa đã chết và đang điều trị ở các bệnh viện đã cho biết họ nhiễm kim loại nặng từ biển. Ngay tại Formosa, ngày 15/4/2016 hàng chục công nhân đã bị nhiễm độc và ngộ độc khi ăn ở nhà bếp chung của Formosa. 29 người nhập viện, hàng chục người khác có dấu hiệu nhiễm độc. Điều lạ ở đây, là quá trình nhiễm độc, ngộ độc của họ đã diễn ra từ từ chứ không đồng loạt như những nơi bị ngộ độc thực phẩm khác. Điều đó cho người ta khả năng nghi ngờ là những chất độc từ sản vật biển đã nhiễm độc ở các mức độ nguy hiểm khác nhau và phát huy tác dụng từ từ.
Với tình trang chất độc đưa vào cơ thể như không và dần dần phát huy tác dụng của nó, thì con người, sức khỏe giống nòi Việt Nam rồi sẽ ra sao? Chưa ai đặt vấn đề đó ra với những kẻ đang hủy hoại đầu độc môi trường sống của Việt Nam.
Với một đất nước có 3.200 km bờ biển số lượng ngư dân và người dân phụ thuộc vào môi trường biển là quá lớn. Cách đây 3 năm ngày 7/6/2013, tại Diễn đàn Kinh tế Biển diễn ra tại Hà Tĩnh, ông Chu Phạm Ngọc Hiển -Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, mục tiêu của Việt Nam đến 2020, kinh tế biển sẽ đóng góp 53-55% GDP.
Khi đó, Lê Đình Sơn, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh còn tự hào Hà Tĩnh có Formosa. Ông cho biết, tỉnh này có bờ biển dài 137km, gồm 3 đảo nhỏ với 4 cảng thương mại và cảng cá. Mặt khác, Hà Tĩnh có ngư trường rộng, diện tích nuôi trồng thủy sản lớn, nhân dân có truyền thống đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, tiềm năng phát triển du lịch dồi dào trong đó có du lịch biển… Toàn những viễn cảnh như mơ. Nhưng những ngày qua, không thấy mặt ông ta và chẳng thấy ông ta nói gì nữa.
Vậy thì nền kinh tế Việt Nam sẽ đi về đâu? Đất nước này rồi sẽ ra sao? Đời sống người dân bần cùng hóa đến mức nào?
Ai chịu trách nhiêm? Họp kín? Thái độ của một nhà nước
Một tháng, với cả một bộ máy nhà nước, đảng, đoàn, mặt trận, các Hội con nuôi của đảng như Mặt Trận, Hội Liên hiệp Thanh niên, phụ nữ... mà cả bộ máy dân phải nuôi phình to bằng ba, bằng bốn bộ máy của láng giềng với số dân tương đồng, họ đang ở đâu? Tất cả đều im lặng và lẩn tránh trách nhiệm của mình.
Họ vẫn tiêu tiền dân đều đều vào xe công, vào nhà công vụ, vào đi nước ngoài học tập, vào những cuộc thăm viếng đón tiếp ngoại bang xâm lược. Trong tháng 4 này, bộ máy đó đã tiêu bao nhiêu tiền dân? chưa ai trả lời được, nhưng chắc chắn một điều" Tháng 4 này, họ đã tiêu tốn hơn 1.000 tỷ đồng cho riêng xe công để phục vụ họ.
Một quan chức Hà Tĩnh với chức danh Phó Chủ tịch Tỉnh là Đặng Ngọc Sơn đã xúi dân xuống tắm biển và ăn cá nhiễm độc. Điều này khiến dư luận bất bình dậy sóng và ông ta "tàng hình". Một tiến sĩ là nhà khoa học đã đánh giá tư cách của Phó chủ tịch Tỉnh này là "thiếu kỹ năng sống và không có kiến thức khoa học" - Nhưng lại là viên quan đầu tỉnh. Vậy thì hệ thống cán bộ sẽ ra sao?
Một viên chức Quảng Bình, khi được hỏi về việc chim đồng loạt chết đã tỉnh bơ: Chim chết không liên quan gì đến chúng tôi. - Bó tay với quan chức nhà nước Cộng sản luôn tự hào là đầy tớ nhân dân.
Không chỉ với những quan chức đông nhan nhản như chính quyền địa phương đã được coi là "tàng hình", cả bộ máy Bộ Chính trị cũng như 4 cái chân gọi là tứ trụ mà người ta vạch mặt chỉ tên hẳn hoi, chưa hé nửa lời về thảm họa này trừ Thủ tướng kêu "xử lý nghiêm". Người ta nhớ chưa lâu, mới đây thôi, họ đã giơ tay thề nguyền sẽ thế lọ, sẽ thế chai trước cả toàn dân và cả cái gọi là Quốc hội... cứ như thật.
Trong số đó, Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp đến vùng thảm họa, gặp gỡ, cười giả lả cùng nghi can gây đại họa là Formosa, rồi ra về với sự im lặng chết chóc và để lại câu khen ngợi "Hà Tĩnh đi đúng hướng". Người dân quan sát và có quyền nghi ngờ rằng: Đó có phải là một cuộc "thông cung" trong tội ác với môi trường Việt Nam ở thảm họa này?
Lúng túng che đậy sự thật
Sau gần một tháng trời với cả bộ máy ôm 24.000 cái "bằng tiến sĩ" đã hoàn toàn bất lực trước một câu hỏi: Thảm họa này do đâu? trong nước biển miền Trung hiện nay có gì? Người dân nên ăn gì, dùng gì từ biển?" - Những câu hỏi đó đã không được trả lời.
Người ta chờ cho đến tối 27/4/2016, 7 bộ gồm Bộ Tài nguyên - Môi trường cùng các bộ khác sau khi họp kín đã có một buổi họp báo có một không hai. Buổi họp báo nổi tiếng này đã đưa ra được một thông điệp: Thông điệp đó là: "Xin thông báo, hiện chưa có gì để thông báo, chúng tôi sẽ thông báo sau khi có điều cần thông báo, vì thế xin thông báo để những người cần được thông báo biết".
Ở Việt Nam, cái trò họp kín đã diễn ra thường xuyên và coi như đó là quyền của đám đầy tớ một cách ngang nhiên, dù đám đầy tớ này đang ăn tiền đi xe, ở nhà và mọi cái đều lấy từ túi ông chủ.
Người ta thấy Quốc hội phải họp kín về Biển Đông, đảng họp kín ở Hội nghị trung ương...tất tần tật cứ như đi buôn bạc giả, buôn lậu ma túy với nhau vậy.
Vì sao phải họp kín? Điều đơn giản để giải thích việc họp kín, là bất cứ sự gì không minh bạch đều cần che giấu trước ánh sáng.
Sự thật lộ diện
Buổi họp báo không đưa ra được thông tin gì từ người tổ chức, chỉ duy nhất đưa được một thông tin là không phải Formosa gây độc mà có thể là "thủy triều đỏ" là nguyên nhân.
Khi nghe câu nói này, cả cộng đồng mạng đã mất một trận cười còn hơn cả ngộ độc nước biển. Trên các diễn đàn mạng, người dân không còn gì để có thể biểu thị sự coi thường, khinh bỉ và thiếu tôn trọng đến thế. Những status trên diễn đàn Facebook kêu gọi yêu cầu Bộ Trưởng Tài nguyên - Môi trường từ chức, chỉ một tiếng đồng hồ sau đã có hàng ngàn người like và hàng cả ngàn lượt người chia sẻ.
Người dân không có được thông tin chính thức từ miệng quan chức Thứ trưởng Bộ TN-MT Võ Tuấn Nhân. Nhưng đã biết điều gì đằng sau thái độ hoảng hốt khi một phóng viên hỏi về độc tố kim loại nặng gây cá chết ở Biển hiện nay: “Tắt máy. Tắt máy nghe. Xin lỗi. Không, không, để anh nói riêng với em. Đừng hỏi câu đó. Hỏi câu đó tổn hại cho đất nước”.
Tổn hại cho đất nước? Với ông này đó là nói lên sự thật? Không. Hoàn toàn không. Khi nói ra sự thật chỉ có hại cho cái đảng của ông ta, - "người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam" (sic). Còn đất nước đã tan hoang, bị đầu độc thì nói lên sự thật chỉ có tốt hơn thôi thưa ông.
Người dân không tin là ông ta và các quan chức không biết nguyên nhân. Bởi người dân có mù, thì họ cũng biết Biển không thể có chuyện tự nhiên bị đầu độc và họ đã biết có nơi, có chốn, có nguyên nhân và thủ phạm rõ ràng như vậy. Cái mà ông cho là "thủy triều đỏ" được cộng đồng mạng chỉ rõ, đó là làn sóng thủy triều cộng sản đang luôn tạo những con sóng đỏ hủy diệt trên đất nước này.
Câu đổ lỗi của ông, chỉ nhằm che giấu những thủ phạm đã đầu độc không chỉ môi trường tự nhiên của đất nước này, mà là cả môi trường sống của xã hội, trong đó có đủ mọi mặt cuộc sống từ giáo dục, y tế, đạo đức, kinh tế xã hội.
Đó là con sóng đỏ của tư duy vô thần Cộng sản lấy vật chất quyết địnhh ý thức con người và coi việc chiếm giữ quyền bính phục vụ lợi ích của phe nhóm mình là tối thượng, bỏ mặc đất nước, dân tộc và dân sinh.
Hà Nội, ngày 29/4/2016. Những ngày người Cộng sản mừng "chiến thắng miền Nam" và thảm họa môi trường.
  • J.B Nguyễn Hữu Vinh
P/S: Video Thứ trường Bộ Tài nguyên - Môi trường: Em hỏi vậy là tổn hại cho đất nước:

VIETTUSAIGON * 30-4

30 tháng 4 sau bốn mươi mốt năm

Đứng ở Bắc Vĩ tuyến 17, nhìn về phía Nam, bên kia cầu Hiền Lương, trước đây 41 năm là lãnh địa của Việt Nam Cộng Hòa. Và đứng trên suy nghĩ của người miền Bắc lúc bầy giờ thì đó là nơi “đồng bào miền Nam bị o ép, không có cơm ăn áo mặc, đau khổ vì bọn ngụy quân ngụy quyền…” theo lối nhồi sọ của người Cộng sản. Để rồi sau 41 năm, người ta lại đứng trên cầu Hiền Lương và nghĩ rằng giá như lúc đó đừng có ngày 30 tháng 4. Giá như… và giá như… cá chết sớm hơn nữa!
Thực ra trước khi cá chết hàng loạt, vấn đề người Trung Quốc xâm lược, tham nhũng, người dân nghèo mất đất, giới quan lại địa phương nhũng nhiễu… tất cả đã là những cái ung nhọt lớn của đảng Cộng sản, càng ngày nó càng lớn thêm. Mà con người thì ai cũng muốn sống trong yên tĩnh, bình an và đừng để chuyện gì trở nên náo động. Chính cái tâm lý thủ phận an thường này cộng với kiểu quản lý sắc máu của nhà cầm quyền đã làm cho hầu hết nhân dân bị tê liệt tính phản kháng. Vẫn biết, vẫn bất bình, vẫn bất mãn nhưng người ta bảo nhau “thôi kệ, ai làm gì thì làm, miễn đừng đụng tới nồi gạo nhà tôi là được!”.
Không hẳn tâm lý thủ phận, an thường như vậy đã là xấu. Bởi khi sống trong bối cảnh Việt Nam, từng va chạm với nhà cầm quyền, với công an thì mới thấy thông cảm cho thái độ lựa chọn này. Nhưng điều đó không hẳn là người Việt hoàn toàn tê liệt khi lựa chọn thái độ này. Bởi người ta đã quá ngán ngẫm cảnh tù cải tạo, cảnh dàn kịch bản để đẩy người ta đến cái chết trong trại tạm giam, nhà giam… và quá nhiều trò đẩy người ta ra đường.
Ngay cả khi rừng núi bị khai thác sạch sành sanh, thủy điện đầu nguồn tích nước làm cho ruộng đồng hạn, mặn, đất đai bị lấn chiếm, bị trưng thu một cách rẻ rúng và bất công, người Việt Nam vẫn chưa kịp đánh thức, vẫn cứ mặc kệ nó. Bởi đã sống quá lâu trong kìm kẹp, sống quá lâu trong bất công và đói khổ, mà khi đói khổ, khó khăn, thứ người ta cần đầu tiên phải là cơm áo, có bao nhiêu giữ bấy nhiêu. Đó là tâm lý chung. Cái tâm lý chung này cộng với tính chịu thương chịu khó, vị tha của người Việt Nam đã khiến cho hầu hết người ta dễ thông cảm và bỏ qua cho giới cầm quyền.
Nhưng không! Đó là lúc chưa đụng đến chén cơm manh áo. Và cũng đừng ai vội vàng kết luận rằng người Việt Nam bị tê liệt khả năng phản kháng. Hoàn toàn không phải vậy. Đến thời điểm bây giờ, có thể nói rằng người Việt Nam có tính phản kháng rất cao và sức chịu đựng cũng rất cao. Khi đã hết chịu đựng được nữa, người ta sẽ phản kháng. Và sự phản kháng này không đến từ ý nghĩa hay quyền lợi cá nhân mà đến từ tập thể, quyền lợi chung của dân tộc. Câu chuyện cá chết và lời kêu gọi biểu tình trên toàn quốc vào ngày 30 tháng 4 đã chứng minh cho chuyện này.
Trong lúc tôi ngồi gõ những dòng chữ này thì tại huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, hàng ngàn nông dân và ngư dân đã ra đường biểu tình. Người ta kéo đi cả vài xã và khí thế hừng hực. Khác với mọi cuộc biểu tình trước đây chỉ kêu gọi chống bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và ở các biên giới. Lần này người biểu tình nêu rõ tội danh của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Người dân yêu cầu nhà cầm quyền phải trả lời gấp về nguyên nhân cá chết và giải trình trước nhân dân về khu kinh tế Vũng Áng cũng như Formosa.
Thực ra, hàng triệu câu hỏi mà nhân dân đặt ra và bắt buộc nhà cầm quyền, đảng lãnh đạo phải trả lời thỏa đáng không phải chỉ mới có ngày hôm qua hay hôm nay mà điều này đã có từ sau 30 tháng 4 năm 1975. Khi mà cả miền Nam giàu có, trù phú và thơ mộng bỗng chốc trở thành tiêu điều, hoảng loạn. Người người đau khổ, nhà nhà đau khổ sau ngày “giải phóng” đã khiến cho người phía Bắc phải thấy giật mình, tỉnh mộng rằng hóa ra lâu nay mình bị tuyên truyền, bị nhồi sọ những thứ không có thật, hóa ra miền Nam giàu có gấp bội miền Bắc và người ta sống cũng văn minh, hiện đại gấp bội miền Bắc!
Những nghi vấn về đảng cứ âm ỉ cháy, đôi khi tưởng chừng như tắt lịm bởi cơm áo gạo tiền, bởi sức ép của xã hội mà ở đó mọi chuyện đều có thể xảy ra, con người có thể bốc hơi một cách bất thường và vô lý trong sức ép tập thể. Người ta buộc lòng phải thủ phận bởi nói cho cùng thì người ta đã quá đủ khổ đau và mất mát, người ta không muốn mất mát thêm nữa!
Tuy nhiên, khi tỉnh mộng, khi thấy rằng càng cố giữ, cố thủ và cố an phận thì không những không an toàn mà càng mau chết, người ta buộc phải nghĩ lại, phải cất tiếng nói và phải đứng lên. Những bất công từ địa phương tới trung ương cũng như sự đớn hèn, nhược tiểu của nhà cầm quyền đảng Cộng sản trước thái độ hống hách của người Trung Quốc trên biển Đông và gần đây là trên bờ, cụ thể là câu phát biểu đầy ngạo mạn và mất dạy của Chu Xuân Phàm đã làm cho nhân dân tỉnh ngộ.
Câu hỏi đặt ra trong mỗi người dân Việt Nam từ Nam chí Bắc hiện nay là liệu chúng ta còn tồn tại được đến bao giờ? Và liệu chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Những câu hỏi này nhanh chóng biến thành hành động, hơn bao giờ hết, người dân sẵn sàng đứng lên để đòi lại một Việt Nam toàn vẹn lãnh thổ, một Việt Nam thơ mộng rừng vàng biển bạc ngày nào.
Bởi sau bốn mươi mốt năm gọi là thống nhất hai miền đất nước, điều mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nhận thấy là mọi thứ tài nguyên trên đất nước này nhanh chóng bị tàn phá, nợ nần quốc gia chồng chất, gia đình ly tán và nhục nhã nhất là chính những người bị cướp, bị bắt, bị hành hạ phải bỏ nước ra đi đã gởi tiền về xây dựng đất nước. Còn những kẻ lên nắm quyền làm lãnh đạo thì chỉ lo vơ vét và bán đứng dân tộc, bán đứng quốc gia.
Bởi sau bốn mươi mốt năm, cái điều mà nhân dân Việt Nam nhận được chính là kẻ ăn không hết, người làm không ra, kẻ có quyền chức thì ăn trên ngồi trốc, sống như những đế vương, người dân cô thế thì thậm chí cả cái quyền được làm người nghèo cũng không có được bởi danh sách hộ nghèo đã lọt vào tay những kẻ không hề nghèo khổ nhưng lại có thế lực đỏ che chở. Nhiều kẻ có nhà cao ba, bốn tầng nhưng để cho con cái đứng tên, tách riêng ra thành một hộ khẩu và ở nhà tuềnh toàng để được vay diện hộ nghèo, được hỗ trợ và thâu tóm mọi khoản tiền dành cho người nghèo mà mang đi cho vay nặng lãi.
Sau bốn mươi mốt năm, cái điều gọi là “độc lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bánh vẽ và người thất nghiệp ngày càng cao, nạn trộm cướp, giết người tăng mạnh, giới quan chức lãnh đạo ngành giáo dục sống xa hoa và thiếu hẳn tư cách con người, bệnh viện trở thành cái lò mổ của tổ quốc và mỗi cán bộ y tế đều tiềm ẩn một đao phủ.
Sau bốn mươi mốt năm, không những chỉ riêng mỗi hệ thống cán bộ của đảng phá nát đất nước này mà bọn họ còn chơi trò cõng rắn cắn gà nhà. Một mình họ phá chưa đủ, họ đưa thêm anh bạn vàng Trung Cộng của họ sang tàn phá, môi trường bị hủy hoại, con người bị tàn hại, mọi thứ trở nên nguy hiểm và chết chóc…
Sau bốn mươi mốt năm, nếu như 30 tháng 4 năm 1975 đất nước trở nên náo nhiệt và ồn ào bởi tiếng reo hò của người miền Bắc và một bộ phận không nhỏ người miền Nam vui mừng “thống nhất đất nước” thì bốn mươi mốt năm sau, cả đất nước cũng trở nên náo động, nhưng không phải là tiếng reo hò mà là tiếng khóc, tiếng thở dài và uất hận.
Tiếng khóc, tiếng hét căm phẫn và tiếng thở dài của cả hai miền đất nước sau bốn mươi mốt năm cũng đủ nói lên rõ tính chất của nhà cầm quyền. Và một khi cả đất nước đều phải khóc, phải hét lên vì căm phẫn, uất ức và gào kêu sự minh bạch của nhà cầm quyền thì câu chuyện không còn đơn giản nữa rồi!

 VietTuSaiGon's blog
 http://www.rfavietnam.com/node/3218

NS.TUẤN KHANH * VIỆT NAM

Hãy gấp trang báo & tắt TV

tuankhanh's picture

http://youtu.be/wsEhrOg0TgM
Gửi một bài hát đến những ai đang muốn mở mắt nhìn quê hương, đón lấy quê hương với sự thật.
-------------------
HÃY GẤP TRANG BÁO & TẮT TV
Sáng tác & trình bày: TK
-------------------
Tôi đã thấy đất nước mình được gọi tên là thiên đường
Và tôi cũng thấy những bóng tối phủ vây trên từng phố phường
Và tôi thấy từng mẹ già được quay hình để gắn huân chương
Và tôi cũng thấy bao người già sống lây lất trên đường
Việt Nam (x 2) là Việt Nam
Tôi đã thấy đất nước này được gọi tên là thiên đường
Và tôi cũng thấy đất quê mình bị xâu xé từ bốn phương
Tôi đã thấy dân tộc mình có tên gọi tự do
Và tôi cũng thấy đời ngư dân ra khơi trong phiền lo
Việt Nam (x 2) là Việt Nam
Hãy gấp trang báo
Hãy tắt Tivi
Để thấy quanh ta chỉ là những trò hề
Mở mắt đi nhé
Hãy lắng tai nghe
Quê hương Việt Nam nghe sao bỗng muộn màng
Việt Nam nhìn nhau
Việt Nam nhìn mai sau
Hãy gấp trang báo
Hãy tắt Tivi
Để thấy quanh ta chỉ là những mộng mị
Mở mắt đi nhé
Hãy lắng tai nghe
Quê hương Việt Nam nghe sao bỗng muộn màng
Việt Nam nhìn nhau
Việt Nam nhìn mai sau
Tôi đã thấy đất nước mình được gọi tên là thiên đường
Và tôi cũng thấy người yêu nước tôi đang khóc trước bạo cường
Và tôi thấy kẻ thù nào đang muốn bóp chết quê hương
Và tôi cũng thấy con tin mình như thúc giục lên đường
Việt Nam (x 2) là Việt Nam

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

S.T.T.D. Tưởng Năng TiếnLại Chuyện Tháng Tư

tuongnangtien's picture
Tác giả câu thơ thượng dẫn là một chính khách rất tài tử, và vô cùng mờ nhạt. Không mấy ai nhớ rằng ông đã từng giữ những chức vụ như Thủ Tướng, Phó Tổng Thống, và Tổng Thống trong thời Đệ II Cộng Hoà – ở miền Nam Việt Nam.
Dân chúng ở miền đất này thường chỉ nhớ đến Trần Văn Hương như một người lập dị. Ổng hay đi làm bằng xe đạp, trong thời gian là Ðô Trưởng Sài Gòn, và thỉnh thoảng lại sáng tác ra những câu thơ (hơi) kỳ cục:
Ngồi buồn gãi háng, dái lăn tăn…
Ở miền Bắc phần lớn quí vị chính khách đều hành nghề cách mạng một cách bền bỉ, liên lỉ và chuyên nghiệp hơn nhiều. Họ cũng sính chuyện thơ văn hơn, và cách họ làm thơ (hoặc viết văn) cũng gây lôi thôi phiền phức nhiều hơn – cho cả đống người!
Khi ngồi buồn, họ không gãi háng. Lúc rảnh rỗi, họ cũng không chịu viết văn hay làm thơ chỉ để đọc chơi thôi. Văn thơ của họ khiến cho cả nước phải bận lòng, và không ít người phải bỏ mẹ, hay bỏ mạng! Xin đơn cử một thí dụ, một câu thơ nổi tiếng hơn, của một chính khách tăm tiếng (và tai tiếng) hơn nhiều:
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao…
Nói theo ngôn ngữ của binh pháp thì tác giả câu thơ vừa dẫn, ông Hồ Chí Minh, là một người cư an tư nguy . Ông Trần Văn Hương thì ngược lại. Ổng cư nguy tư an. Nói cách khác, và nói theo kiểu miền Nam, là thằng chả lè phè hết biết luôn!
Nghiêm túc, khẩn trương, hiếu chiến và hiếu thắng…không phải là quan niệm sống riêng của ông Hồ. Thi
đua lập chiến công dâng Đảng, đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào, một người làm việc bằng hai, nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài… là chỉ thị của “trên” đưa xuống và nửa nước bắt buộc phải (triệt để) tuânhành.
Lè phè cũng không phải là thái độ sống chỉ có nơi ông Trần Văn Hương. Ðó là cung cách chung của hầu hết người dân miền Nam. Sự khác biệt giữa ông Trần Văn Hương và dân chúng, có chăng, chỉ là mức độ.
Không mấy người dân miền Nam, lúc buồn, chịu ngồi gãi háng (suông) như ông Tổng Thống. Họ thường vừa gãi háng vừa nhậu lai rai (vài xị) cho vui – nếu là đàn ông. Họ đánh tứ sắc, đi coi cải luơng, hoặc đi cầm đồ để mua sầu riêng ăn chơi cho đỡ ghiền – nếu là đàn bà, ở đô thị. Và họ đi Hồng Kông hay Nhựt Bổn để mua đồ lót và son phấn, nếu là bà lớn. Họ đi buôn lậu (không chừng) nếu là ông lớn. Và cả đám
đều hân hoan chơi tạt lon, thả diều, đá banh, đá bóng, đá dế, đá cầu, đá kiện, đá cá lia thia hay lắc bầu cua cá cọp – nếu là con nít nhỏ, ở thành phố.
Chuyện đánh đấm là “chuyện riêng” của môt giới người, tụi lính. Hứng chịu bom đạn, tai ương của chiến tranh là nỗi bất hạnh riêng của một số người khác nữa – đám nông dân.
Những chiến dịch hay phong trào hoàn thành kế hoạch nhỏ, nhi đồng cứu quốc, thay trời làm mưa, quyết tâm thu hoạch vượt chỉ tiêu vụ này vụ nọ… nếu phát động ở miền Nam (e) sẽ không có người tham gia, và tác giả của chúng – chắc chắn – sẽ bị dân chúng cũng như báo chí chửi cho… tắt bếp!
Chuyện Nam – Bắc đánh nhau kết thúc ra sao, vào ngày 30 tháng tư năm 1975, mọi người đều rõ. Viết thêm nửa chữ cũng thừa.
Cuộc chiến tàn. Theo sự hứa hẹn của quí vị lãnh tụ (của phe thắng trận) thì từ đây ta sẽ xây dựng đất nước gấp muời lần hơn, ta cũng sẽ đi tắt đón đầu nhân loại, và ta sẽ chuyển đổi từ ăn no mặc ấm qua ăn sang mặc đẹp…
Chuyện dân Việt ăn mặc (sang trọng và đẹp đẽ) ra sao để từ từ rồi tính tới nhưng riêng về cách họ dùng lon, thay gáo, uống nước thì ngó bộ quá tốn công và rất…cầu kỳ – theo như ghi nhận của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:
“Lần về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: Những vỏ đồ hộp nước giải khát các loại. Các mầu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon Heineken, lon Coca Cola, Pepsi Cola, những lon Tiger, San-Miguel, những lon nước ngọt đã uống cạn mà trong những lần xuống tầu đi nước ngoài anh lượm được cho vào túi ni lông mang về…
Anh Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo, đem ra giếng súc rửa sạch rồi bầy vào tủ. Và nhặt bốn vỏ lon khác, mỗi chiếc một mầu bảo lũ trẻ con mài trên nền xi măng trong nhà. Mấy đứa trẻ lao vào mài theo đúng hướng dẫn của anh. Tiếng sào sạo sạo sạo ghê người. Chẳng mấy chốc, cái nắp hộp rời ra. Anh xếp bốn chiếc vỏ hộp lên bàn, nở nụ cười mãn nguyện:
– Làm cốc uống nước…
Những chiếc vỏ hộp trên bàn, trong tủ, những dấu vết ấy của văn minh làm nhà anh cứ sáng trưng lên, khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh đã có hơi hướm của một thế giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh vẫn còn đang triền miên thời làm nương, thời lúa nước.
Và đến khi lũ trẻ được thoải mái chơi nghịch những vỏ lon còn lại mới thật tưng bừng. Đúng là một ngày hội…” (Bùi Ngọc Tấn. Biển Và Chim Bói Cá. Hội Nhà Văn. Hà Nội: 2008, 436 – 437).

Điều kiện sống, cũng như niềm vui “tưng bừng” trong “ngày hội” của dân Việt, như vừa được mô tả – dường như – có làm cho một số người cảm thấy bất an, hoặc không được hài lòng cho lắm. Tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá (trong một buổi hội thảo, do công ty Nhã Nam tổ chức, vào ngày 20 tháng 3 năm 2009) đã được “bình” và “phê” như sau:
“… chi tiết rất quan trọng trong tiểu thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết mà chưa được tổ chức một cách chặt chẽ như Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã là một thành công. Thanh Sơn cũng nhấn mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến độc giả rất khó đọc, rất mệt để đọc đến những dòng cuối cùng.”
Có lẽ, người ta chỉ cảm thấy bớt mệt (và thở phào nhẹ nhõm) khi Hà Linh – người viết bài tường thuật thượng dẫn – cho biết thêm rằng “Biển và chim bói cá lấy bối cảnh thời bao cấp.” Thiệt là mừng hết lớn.                                               
Đó là một thời đã qua rồi!
Lịch sử đã sang trang. Chuyện cầu cạnh, bon chen, cậy cục, vay muợn, chạy chọt cho có cơ hội được bước xuống tầu viễn dương – làm một chuyến viễn du, hay nói một cách lịch sự và lịch sử là Đông Du – đi đến những chân trời xa lạ (để mang về những cái chai và lon.. rỗng) không còn phải là đặc quyền của riêng một giới người nào nữa.
Hai muơi năm sau, kể từ lúc “Đảng dũng cảm và quyết tâm đổi mới,” vào năm 2006, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng còn lớn tiếng hô hào toàn dân “hãy bước ra biển lớn.” Mệnh lệnh của ông đã khiến cho dư luận (hết sức) xôn xao và (vô cùng) phấn khích – trong một thời gian rất dài – qua diễn đàn Vươn Ra Biển Lớn, trên Tuổi Trẻ Online.
Nhiều năm sau nữa, sau khi thuyền (đã) ra cửa biển, cuộc sống – xem chừng – cũng không khác trước là bao. Hãy thử đọc một đoạn văn khác, của một ngòi viết khác, về sinh hoạt của một vùng đất khác – ở Việt Nam – bây giờ:
“Cả bản xôn xao khi thấy người lạ xuất hiện. Đám trẻ con hầu hết không quần áo, hoặc trên mình chỉ mang một trong hai thứ, mặt mày chúng trông bẩn thỉu, lem luốc và chi chít vết ruồi vàng bọ chó cắn.
Tôi hỏi thăm đường đến nhà mấy giáo viên cắm bản, nhưng chẳng có ai biết nói tiếng Kinh cả. Nhìn về phía cuối bản, tôi bỗng thấy một lá cờ đỏ bay phấp phới, đoán rằng đấy chắc là khu vực lớp học, tôi lại nặng nề lê bước về phía đó. Mấy thầy cô giáo thấy tôi xuất hiện, họ không khỏi ngỡ ngàng. Với họ, sự xuất hiện của người Kinh ở bản biên giới này hình như hiếm lắm…
Có lẽ cuộc sống người dân tộc La Hủ ở Pa Ủ cũng đơn giản như chính những ngôi nhà mái tranh vách phên của họ. Đơn giản đến lo ngại như những liếp phên cứ rung lên bần bật bởi gió rừng. Ở những túp lều bé nhỏ đến chật chội vì quá đông người đó, mỗi nơi lại có một câu chuyện về hoàn cảnh và những số phận con người. Cuộc sống của mỗi gia đình ngày hai bữa sáng, tối phải lót dạ một cách dè dặt với canh sắn, ngô đồ, còn măng và rau sắn thì dường như ngự trị bữa
ăn…, để có một nồi cơm độn sắn cũng hết sức khó khăn!
(“Thương Lắm Những Búp Non Ở Trên Cành”) Mạnh Hà, phóng viên TTXVN tại Lai Châu).

Ảnh: Báo Lai Châu
Thôi chết mẹ! Vậy là khi tầu hạ thủy – vì lu bu nhiều chuyện quá – Đảng và Nhà Nuớc đã quên (hú) những người dân ở miền sâu, miền xa, miền rừng núi rồi. Đúng
không?
– Thưa không! Cả đống còn đang đứng (lóng ngóng) trên bờ, chớ đâu có riêng chi mấy đám dân bản địa.                                
Trong một cuộc chất vấn dành cho những đại biểu quốc hội, Bộ Trưởng Nông Nghiệp Cao Đức Phát cho biết ở thôn quê “vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm!”
Như vậy là đám nông dân, ở miền xuôi, cũng bị bỏ lại luôn sao?
– Chắc bi họ đông quá nên mang theo (e) quá tải chăng?
– Thế còn đám công nhân?
Xin đọc qua đôi dòng tường thuật của ký giả Nguyễn Bay:
Một ngọn đèn dầu, cái giỏ nhựa đựng đồ nghề đấm bóp, giác hơi, chiếu cói, gối hoa trải sẵn hoặc chỉ là một tấm áo mưa. Thợ giác hơi quanh KCN Tân Tạo đa số là nữ với các ‘chiếu’ trên vỉa hè, ven đường, thậm chí chỉ một mô đất giữa ruộng; hoạt động từ 18g30 đến 3-4 giờ sáng...
Gần một năm nay, các "chiếu" giác hơi ngày một dài thêm hàng cây số (đường đi Long An, An Sương). Lúp xúp trong bụi cây, bờ cỏ, chúng tôi nhận ra nhiều thợ vốn là công nhân... Những khi tan ca, họ lẫn vào dòng thợ ‘chào hàng’... Tiền công 10.000 - 15.000 đồng/lần, bằng nửa ngày công... làm thợ.
Dẫy chiếu “ngày một dài thêm” vì vật giá mỗi lúc một tăng mà đồng lương thì không. Lương bổng công nhân Việt Nam không thể nâng cao hơn vì những người lãnh đạo ở xứ sở này đã lựa chọn một … quốc sách thấp – theo lời ông Hồ Xuân Lâm, trưởng phòng quản lý lao động các khu chế xuất - khu công nghiệp TP.HCM:
Chúng tôi đã có cuộc họp với Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan và tư vấn cho họ hãy trả lương cao hơn để tránh đình công. Họ nói là rất muốn trả cao hơn nhưng không thể vì quy định lương của Chính phủ Việt Nam quá thấp, các đối tác nước ngoài dựa vào đó kềm giá đơn hàng nên có muốn cũng không thể tăng hơn được.
Nói tóm lại – và vẫn nói theo kiểu miền Nam – là thuyền đã ra cửa biển … mình ên! Nhắc đến miền Nam, tôi lại chợt nhớ đến những chuyến tầu (bay) vội vã rời khỏi Sài Gòn – vào tháng Tư, bốn muơi năm trước – năm 1975. Trên một số những con tầu này chỉ có qúi ông qúi bà tai to mặt lớn (cùng với của cải, thân nhân và gia nhân của họ) mà thôi.
Bây giờ, sau khi bước ra biển lớn, kiểm điểm lại cũng chỉ thấy duới thuyền không có ai khác – ngoài những kẻ cầm quyền, cùng với hành lý, thân nhân và gia nhân của họ. Thuyền đi càng xa, khoảng cách giàu nghèo (rõ ràng) càng rộng. Ông bạn Lê Diễn Đức gọi đó là sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn.
Phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để đổi lấy sự đểu cáng như thế thì (đ… mẹ) không chửi thề sao được chớ.

NGUYỄN THIÊN-THỤ * PHAN LẠC PHUC




PHAN LẠC PHÚC 
NGUYỄN THIÊN -THỤ

Phan Lạc Phúc sinh năm 1928 ở làng Hữu Bằng , huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt. Ông có 5 anh em, nhưng chỉ có hai anh em, là ông và Phan Lạc Tiếp, vào nam di cư năm 1954. Sau ông học đại học Văn Khoa Sài Gòn, rồi nhập ngũ sĩ quan trừ bị Thủ Đức khóa 2, và trường Thông Tin Báo Chí Hoa Kỳ (F.Slocum-NewRochellle-NY).Ông làm chủ bút nhật báo Tiền Tuyến, cơ quan ngôn luận của quân đội Việt Nam cộng hòa; cộng tác với Chỉ Đạo, Tiền Phong, Nghệ Thuật.. . Sau 1975, ông bị giam tại các trại Liên trại 2 Sơn La, Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập ( Vĩnh Phú). Năm 1985, ông được trả tự do, và định cư tại Sydney (Úc) năm 1991. Từ năm này, ông cộng tác
với các báo Triêu Dương (Úc), Ngày Nay (Texas)- Minesota- Arizona), Khởi Hành (California), Thời Báo (Toroto, Canada), Quê Mẹ (Pháp). Ông dùng nhiều bút hiệu: Ký giả Lô Răng, Thiên Khải,v.v... Các bài ký của ông được xuất bản thành hai tập: Bè Bạn Gần Xa , Văn Nghệ, Cali, 2000 và Tuyển Tập Tạp Ghi, Văn Nghệ, Cali, 2002.


Hai tác phẩm trên đều là bút ký và mang chung hai chủ đề: tù đày và bạn bè. Riêng ''Tuyển Tập Tạp Ghi'' còn mang thêm một chủ đề nữa, đó là quê hương. Ông đã bị cộng sản giam giữ mười năm trời, các bút ký của ông là những hình ảnh của những cuộc đời tù đày dưới ách cộng sản nhưng vô hình chúng nối kết lại trong một không gian và thời gian của lịch sử dân tộc cho nên cũng giống như một trường thiên tiểu thuyết. 

Trong Bè Bạn Gần Xa, trước tiên, ông đã nói lên tội ác của cộng sản trong việc đưa người ra Bắc. Họ nhốt các sĩ quan và nhân viên cộng hòa trong những hầm tàu thủy và những khoang tàu lửa chật chội, bẩn thỉu : Sau ba ngày đem lênh đênh trên biển, trong một hầm tàu chạng vạng tối tăm, chúng tôi như mê muội đi với phân và nước tiểu lênh láng ở sàn tàu, với sự đói không dám ăn, khát không dám uống. Càng đại tiểu tiện nhiều thì chúng tôi càng chịu đựng thêm mùi hôi thối, càng ngất ngư vì thiếu khí trời. Rời tàu ở Bến Thủy, Vinh, chúng tôi đợi qua đêm. Sáng mai từ 5 giờ sáng lên tàu lửa. [. . .]. Toa xe lửa chở súc vật được đóng chặt, chỉ có hai cái cửa bằng cuốn sách ở trên cao. Trời mùa nóng, cái nắng ở ngoài, hơi người, hơi phân súc vật bốc lên, khí trời như đặc lại.. .( Hoàn toàn là sự thật, 51). 

Cộng sản những tù nhân như súc vật, bắt nhốt trong những toa xe lửa chật chội, hôi thối: Hằng trăm người tống lên một toa xe chật cứng, hơi người hơi phân súc vật bốc lên không lối thoát. [. ]. Như một lũ côn trùng, mọi người ngổn ngang, bò lăn trên sàn, dùng hết khả năng còn lại của giác quan đi tìm một nơi nào có một cái khe nhỏ, một vết nứt hay một cái lỗ ở sân tàu tranh nhau để mũi, để mồm vào đó hít lấy một chút dưỡng khí (Chuyến tàu định mệnh, 55-56)



Phan Lạc Phúc đã nói đến cảm giác của ông trong những giây phút địa ngục đó: Con người như mê đi, không biết rằng mình đang sống hay mình đang chết. Người ta phản ứng theo bản năng. Từ sáng tới giờ không được nghỉ, không được xuống xe, bọng dái vừa tức vừa căng phồng mà không được đái. Đái vào đâu bây giờ, cứ nhịn. Nhưng đến lúc nhịn không được, ý thức tê liệt đi, tôi đang nằm như tỉnh như mê bỗng thấy bất thần khoan khoái và nóng lên ở hạ thể. Tôi đang nằm trên sàn xe, đang đái ra quần. Tôi đang đái và được đái. Sự bài tiết chờ đợi từ sáng tới giờ bỗng chốc được khai thông, sung sướng quá. Nhưng sự sung sướng không được lâu. Cái dấp dính của nước tiểu hòa lẫn phân bò lại làm cho cái không khí quánh đặc thêm khai nồng. ( Chuyến tàu định mệnh, 56). Kết quả cuả chính sách vô nhân đạo đó, một số sĩ quan Việt Nam đã chết trên đường ra Băc. Đó là trung tá Ngô Văn Hùng (50) và trung tá Lan. Phan Lạc Phúc đã kể khá tường tận về giờ phút cuối của trung tá Lan: người nằm đó trung tá Lan, không bao giờ dậy nữa. Chết rồi. Không biết chết lúc nào. Người cúi xuống ôm cái xác bất động ấy lên là một người bạn tù tôi mới quen đêm qua ở Bến Thủy, Vinh, khi ngồi qua đêm đợi giờ lên tàu lửa. Đó là thượng tọa Thích Thanh Long, nguyên trung tá Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật giáo..(58). 

Người cộng sản rất độc ác. Họ đem các tù nhân ra Bắc vì nhiều lý do. Thứ nhất, họ muốn dùng sức lao động của tù nhân để khai phá núi rừng miền sơn cước. Thứ hai, họ muốn dùng nhân dân của họ bao vây tù, và muốn dùng địa thế xa lạ và hiểm trở để ngăn tù trốn, và cuối cùng là họ muốn dùng khí hậu khắc nghiệt của miền sơn cước Bắc Việt để hành hạ các tù nhân. Phan Lạc Phúc đã viết nhiều về cái lạnh của miền Bắc: Nhà tù đã đổ bây giờ được che tạm bằng ni lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miền cao nên lạnh sớm. Mới tháng 11, gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12, lạnh vào cao điểm. .[ ..]. Mà xưa nay cái lạnh và cái đói nó có liên hệ ''hữu cơ'' với nhau. Càng đói thì càng rét- mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người '' nằm xuống'' vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bệnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977( không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng , tôi nhớ không được kỹ lắm), Ngô Quý Thuyết toà án quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ ( Bạn tù Sơn La, 59, 67 ).
Người cộng sản đã dùng cái đói để hành hạ các chiến sĩ ta. Trong các chế độ, tù nhân được phát lương thực. Trong chế độ cộng sản, tù nhân phãi sản xuất lấy lương thực mà sống, it khi được cấp lương thực. Dù sản xuất được nhiều, người tù cũng chỉ được hưởng rất ít. Lúc nào, người từ cũng bị cái đói hành hạ. Phan Lạc Phúc viết: Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách it ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẫy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột mì cứu trợ rồi. Cái gọi là ''bữa sáng'' chỉ là một chén nước cháo bột khoai mì loãng đày mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. (Bạn tù Sơn La, 70).
Phan Lạc Phúc đã nhấn mạnh về cái đói thường xuyên ở trong tù:
Lũ tù cải tạo chúng tôi ra Bắc nếm mùi xã hội chủ nghĩa, đói quanh năm suốt tháng, đói triền miên, đói dài dài, miếng sắn, miếng khoai là ước mơ to lớn nhất. Từ sự kiện này, tôi mới nhận ra rằng cái nghệ thuật cao tay của người Bôn sê vich trong việc quản trị là nghệ thuật nắm cái dạ dày. Ngày ấy, ngoài Băc chế độ tem, phiếu còn đang thịnh hành, lương thực còn do tay nhà nước quản lý. Anh em tù lên huyện Phù Yên lĩnh gạo về cho hay rằng nhân dân không ai có quyền được có quá 5 ký gạo trong nhà (78). 

Người tù phải chịu bao nỗi đắng cay của phận mình và của cả một dân tộc. Người tù còn phải chịu những đau khổ cho thân nhân họ. Đa số gia đình bị cộng sản tịch thu gia sản, và đuổi đi kinh tế mới như chính gia đình Phan Lạc Phúc (124); Trung tá L. râu đau khổ vì con trai tử trận tại Cam pu chia (121). Đau đớn nhất là thân nhân người tù bị cướp bóc, hãm hiếp trên đường vào trại thăm nuôi chồng, cha (178-179). Ngoài bọn công an tàn ác, tù nhân còn bị ba kẻ thù hành hạ, đó là ăng-ten, chuột và rệp (117). Có một nhân vật rất đặc biệt là một công an già, là cụ Việt rất tử tế đối với tù nhân ( Tết trong trại tù Yên Hạ, 83- 107). Và trong số những tù nhân hèn hạ, làm ăn ten cho cộng sản, chúng ta thấy hiện lên những khuôn mặt rạng rỡ của can đảm và nhân hậu. Đó là thượng tọa Thích Thanh Long, thể hiện tinh thần bi, trí dũng của nhà Phật. Đó là Nguyễn Hữu Luyện, một biệt kích can trường bất khuất của tinh thần uy vũ bất khuất. Và đó là bác sĩ VN , và ông A ở trại K2 (155-160).

Trích NGUYỄN THIỆN THỤ -VĂN HỌC HIỆN ĐẠI 2006 )

No comments:

Post a Comment