Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday 28 October 2016

BÁNH MỲ SAIGON=

BÁNH MỲ SAIGON





Bánh mì Sài gòn (a piece of history)

Năm xưa bánh mì đang nóng lấy từ bao ni lông xong ăn liền , làm gì có thứ xà bông rửa tay như ngày nay , nghĩ lại hơi sợ
Bánh mì Sài gòn theo dòng thời gian‏

BanhMi



Bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định. Ngoài người Pháp, cách làm bánh mì đầu tiên được người Hoa tiếp thu, sản xuất bán ra thị trường và trong số khách hàng mua bánh mì thời kỳ đó có cả người Việt: Bồi bàn, thông ngôn, thầy ký có lẽ là những người nếm bánh mì đầu tiên; Kế đó là công chức tân trào, rồi đến tầng lớp Tây học, thị dân và lần lần tỏa rộng phổ biến cả thành thị lẫn nông thôn”


– Huỳnh Ngọc Trảng


Trong bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Gù của cụ Nguyễn Đình Chiểu năm 1861, ta thấy có hai câu như sau:

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.







Bánh mì theo chân người Pháp đến Saigon đầu tiên, xuống Nam Kỳ lục tỉnh, ra miền Bắc, sau đó mới phổ biến trên toàn quốc, cho nên khi đề cập đến bánh mì, người ta đề cập đến Saigon: bánh mì Saigon. Ta thấy những thực phẩm, những vật dụng hàng ngày mà người Pháp mang đến Việt Nam, đều được gọi kèm theo chữ tây như: khoai tây, hành tây, dâu tây, rượu tây, thuốc tây, giày tây …


Trong khi ngoài Bắc gọi bánh mì là bánh tây, thì miền Nam lúc đó đã gọi nó là bánh mì ổ (ổ như chữ ổ của bánh bông lan). Có lẽ một trong các loại bánh mì mà người Pháp du nhập sang đầu tiên là pain de champagne (bánh mì đồng quê) ổ bự, to bè, nhiều ruột, để được vài ngày hay các loại bánh mì hình tròn, hình bầu dục gọi tên là le pain rond, le complet, le bâtard…



Ai bảo bánh mì Paris ngon
Chắc gì hơn bánh mì Sài Gòn!
Bánh mì Sài Gòn Năm bờ Uon
Nóng, thơm, bùi, béo, lại vàng ròn


Công Tử Bạc Niêu


Những ổ bánh mì Saigon mới ra lò còn nóng, dậy mùi thơm của bột mì nướng, vỏ giòn rụm, vàng ươm, láng lẩy bơ, nở tròn bụng, ruột trắng mịn và xốp này từ những năm 30 cho mãi đến bây giờ, vẫn là một thứ quà Saigon, mà những người dân ở miền Tây đi Saigon về lại nhà mua làm quà cho con cháu. Dù bánh mì khắp nơi đều có, ở các tỉnh đều có lò làm bánh mì, nhưng danh tiếng bánh mì Saigon đã đi vào ký ức người ta từ lâu lắm rồi. Ở cửa ngõ thành phố đi các tỉnh đầy những chỗ bán bánh mì. Bến xe xa cảng miền Đông, miền Tây, lúc nào cũng có những người đội các cần xé đựng bánh mì đến tận cửa xe bán cho khách mua.




“Hồi còn nhỏ học Tiểu học, mỗi lần bãi trường, nghỉ hè là ba anh em tôi được ba tôi dẫn đi Sài Gòn chơi, thăm bà dì ở ngã Bảy gần rạp Long Vân… và nhứt là khi về lại Mỹ Tho, trên tay luôn luôn xách tòn ten một xâu chừng chục ổ bánh mì cột dây lác có quai. Quà Sài gòn à nhen. Má tôi đem chia cho bà con chòm xóm ăn lấy thảo. Còn mấy đứa bạn hàng ngày chơi tạc lon, vít hình, bắn đạn, đá cá, đá gà, đá banh, tắm sông… cho ngoạm (cắn) một miếng thôi là đủ rồi!


Bánh mì Sài gòn mà! Bánh mì ở đâu cũng có nhưng phải nói “Bánh mì Sài gòn” có đẳng cấp và phong độ ghê gớm lắm!.Một thứ quà bình dân đem về xa lắm ở tận trên … Sài gòn! Sài gòn cho dù có đủ món ngon vật lạ, đủ thứ trên đời do người ở tứ xứ mang về, nhưng theo đầu óc suy nghĩ non nớt của một học sinh tỉnh lẻ (đêm buồn), chỉ có “Bánh mì Sài gòn” mới tượng trưng cho “thủ đô” Sài gòn.


Theo thời gian có lúc ngon lúc dở, tùy chỗ pha thêm bột gạo nhiều ít khác nhau: chợ Cũ, xa cảng miền Tây, xa cảng miền Đông, ngã ba Hàng Xanh ….”


– Đáp tàu khói, về quê ăn Tết
Gió bấc đầu mùa gợn sóng đêm
Ôm ổ bánh mì làm gối nhỏ
Đem về cho mẹ với cho em


Kiên Giang




Sau khi mấy ông Tây thuộc địa về nước, bánh mì ở lại, vẫn tồn tại, và lần hồi mọc rễ vững vàng, được tiếp nhận rất nồng nhiệt, ở mọi nơi, trong mọi giới. Ổ bánh mì thông dụng và tiện lợi cho việc vừa đi vừa gặm (như thơ cụ Đồ Chiểu nêu trên) ngày nay là ổ bánh mì theo hình dáng như baguette của Pháp, nhưng ngắn hơn, chỉ khoảng 30-40 cm.


Baguette là loại bánh mì đặc biệt của thủ đô Paris, hình trụ thon, dài cỡ một mét, bề ngang nhỏ, đường kính khoảng 5- 6 cm, nặng chừng 250 gam, vỏ giòn, ít ruột, phía trên mặt có cắt rãnh, thường để ăn liền trong ngày, không giữ được lâu.


Ở Saigon, nhiều đợt bánh mì được ra lò trong ngày. Bánh mì nóng được phân phối khắp đường phố, khắp ngõ hẻm Saigon sáng sáng, chiều chiều nhờ đội ngũ bán bánh mì dạo. Hoặc là những em nhỏ quảy trên lưng các túi vải bồng bột, màu mỡ gà, bên trong lồng thêm vài lớp bao bằng giấy dầu để giữ cho bánh mì nóng lâu, vừa chạy lúp xúp vừa rao:” Bánh mì nóng đê ê ê ê …”. Hoặc những ông bán bánh mì bằng xe đạp, sau yên xe chở một giỏ cần xé, phủ kín bằng bao bố.


“ Nhiều lúc đứng chờ bánh mì ra lò, tôi đã có dịp chứng kiến quy trình làm bánh: Bánh mì trước khi nướng là bột lấy trong những bao bột mì, được thợ nhồi cho dẻo, để cho nở rồi kéo thành từng thỏi bột nhỏ, dài. Họ khéo léo ngắt từng đoạn cho vừa với cân lượng rồi dùng dao nhỏ rạch những đường dài dọc theo ổ bánh, để khi nướng bánh mau nở.


Xong, họ sắp những ổ bánh còn là bột đó thành hàng lên những chiếc “băng” giống như “băng-ca”, kê vào miệng lò nướng rồi kéo một cái tức thì bánh trên cái “băng-ca” đó đều nằm gọn trong lò nướng. Thợ đóng cửa lò nướng lại, tăng, chỉnh độ nóng của điện sao cho bánh nướng chín vàng mà không bị khét.


Khi đủ thời gian, ổ bánh đang nướng trong lò sẽ được những người thợ dùng những cái dầm nhỏ như cái mái chèo, xúc ra một ổ để xem độ chín. Khi bánh đã chín đều người ta dùng những dụng cụ giống như cái xẻng to mà xúc bánh ra, đổ thành đống trên bàn, mỗi lần xúc chừng chục ổ bánh nóng hôi hổi, sờ vào phỏng tay như chơi!”- Hoàng Đức


Bánh mì ăn không cũng ngon
Ta đi trăm núi, ngàn sông biển
Không đâu bánh mì ngon
Bằng bánh mì Saigon


Công Tử Bạc Niêu




Những lò bánh mì ở Saigon lúc nào cũng có đông người chờ lấy bánh mới: hoặc là những người bán lẻ cần một số lượng lớn, hoặc là những người chỉ cần mua một vài ổ, nhưng muốn mua thẳng từ lò. Cầm ổ bánh mì nóng hổi mới ra lò, người ta hay bẻ cái đầu giòn giòn ăn liền tại chỗ. Bánh mì nóng giòn ăn không cũng ngon, nhưng bánh mì không cũng có nhiều cách để ăn lắm.




Ăn bánh mì theo ông Tây, bà đầm từ thời thuộc địa là ăn bánh mì với fromage, trứng (omelette, oeufs au plat), thịt nguội (paté, jambon, saucisse à), beurre, mứt trái cây(confiture) như dâu, cam, nho àhay chấm sữa nóng cho bữa ăn sáng. Dùng bánh mì ăn kèm với súp (soupe), bí tết (bifteck), ra gu (ragout)à trong bữa ăn tối.

Tuy cũng ăn giống như vậy, nhưng người Saigon đã dần dà cải tiến cho hợp với khẩu vị của mình như: Ăn bánh mì với những miếng phô mai “ Đầu con bò cười (La vache qui rit)”, phối hợp thêm chuối già. Ăn sáng bằng bánh mì trét bơ mặn Bretel, rắc chút đường cát trắng; Bánh mì chấm sữa nóng, pha thêm một chút cà phê cho có mùi thơm hay ăn bánh mì trét bơ chấm cà phê sữa nóng; Bánh mì chấm sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hay Con chim (hiệu Ông Thọ- Hiệu sữa Longevity, trước đây thuộc hãng Foremost, Mỹ, hình “ Ông Thọ chống gậy”, nói lên tuổi thọ của người dùng. Hiệu Con chim của hãng Nestlé, Thụy Sỹ, đúng ra là hình một tổ chim, gồm một chim mẹ và hai chim con)…












Bánh mì gốc Tây, đến Saigon được cho kết duyên với các món ăn, gốc gác từ các nước khác, đã được Việt Nam hóa như: Cà ri gà nấu bằng nước cốt dừa và sả, trong khi các loại cà ri Ấn Độ nấu bằng sữa chua (yaourt); Bò kho cách hầm giống như bò nấu xốt vang của Tây (boeuf bourguignon), nhưng có thêm mùi ngũ vị hương; Hay ăn bánh mì với các món Tàu là phá lấu, lạp xưởng, xá xíu, thịt quay, xíu mại…


Vân Tiên ngồi dựa gốc dừa
Tay cầm chai rượu miệng nhai bánh mì
Nguyệt Nga mới hỏi ăn gì ?
Vân Tiên mới nói bánh mì thịt quay!



Cách ăn bánh mì còn được Saigon hóa, phong phú thêm một bậc ở cách chế biến là kẹp vào trong bánh mì phần “ nhân “ kiểu cách rất Saigon, gọi là bánh mì kẹp thịt Saigon hay bánh mì thịt Saigon.





Bánh mì thịt Saigon xác định được nét đặc biệt và hương vị riêng của mình, phản ảnh thị hiếu ăn uống và sự sáng tạo của dân chúng: “ Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên ngon khi kẹp bánh mì thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốpla ở giữa vẫn ngon hơn khi ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt “ – Phạm Công Luận




Phần nhân của bánh mì thịt Saigon gồm ba nhóm:


1-Loại thịt kẹp (bỏ, nhét) vào bên trong quyết định tên gọi của bánh mì. Gọi chung là thịt nhưng có thể là thịt heo, thịt gà, thịt bò, cá hay trứng. Trứng thường làm kiểu ốp la chiên sẵn.


Cá là cá hộp xốt cà chua (ở VN ngày xưa có hiệu cá mòi Sumaco của Maroc, ngày nay có hiệu cá nục Ba cô Gái của Thái Lan). Thịt bò xay trộn sả ớt bằm nhuyễn xiên que nướng. Thịt gà thường làm kiểu chà bông hay quay. Thịt heo được sử dụng nhiều nhất, với nhiều cách chế biến khác nhau: Từ thịt heo nướng, thịt xá xíu, thịt quay, thịt ba chỉ buộc dây bó khoanh, da nhuộm màu đỏ cam, thịt thăn heo chà bông…qua xíu mại (thịt heo bằm xốt cà chua), nem nướng, chả lụa, giò thủ… qua ba tê gan, phá lấu (lòng heo khìa), bì (da heo trộn thịt heo chiên xắt sợi)…


2- Các loại rau: Dưa leo thái mỏng, ngò (rau mùi), đồ chua, hành tây, cọng hành lá, ớt… Bà Nguyễn Thị Tịnh, chủ nhân bánh mì Hòa Mã nói: “ Người miền Nam thường thích cái gì cũng có tí rau. Vì vậy ổ bánh mì được cho thêm vài lát dưa leo, củ cải trắng, cà rốt cắt sợi ngâm chua, thêm vài cọng hành, ngò để có hương thơm, vài khoanh ớt cay vừa ăn vừa hít hà mới khoái “


3-Gia vị như: Sốt mayonnaise, xì dầu, nước mắm pha, tương đen, tương ớt, muối tiêu…
Ở các chỗ bán bánh mì, các nguyên liệu kể trên được bày biện sẵn sàng phục vụ thực khách.





Bánh mì thường được nướng giòn từ trước. Khi có khách hỏi mua một ổ bánh mì đặc biệt chẳng hạn, người bán hàng lẹ tay lấy ổ bánh mì, xẻ đôi, một bên quệt qua quệt lại chút sốt mayonnaise hay bơ, một bên trét ba tê gan, rồi nhét chả lụa, thịt nguội à cho đều, rồi cho thêm miếng dưa leo xắt mỏng, chút đồ chua, vài cọng ngò, vài khúc hành lá chẻ nhỏ, vài miếng ớt, chan chút xì dầu, rắc miếng muối tiêu lên trên, kẹp lại, đặt trên tờ giấy cắt vuông, gói lại, giao cho khách đang đợi.


Các động tác của họ rất nhịp nhàng, thành thạo. Nhìn thấy dễ như vậy, nhưng cách xắt thịt, chả dày hay mỏng vừa đủ, sự gia giảm số lượng bơ, sốt, ba tê, ớt… Rắc bao nhiêu muối tiêu, xì dầu thì vừa ăn sẽ quyết định “ phẩm chất “ của từng hàng bánh mì.





Cắn một miếng bánh mì giòn rụm, vỏ bánh mì rớt xuống, đủ mùi: mằn mặn của thịt, chả, ba tê , ngọt ngọt, chua chua của đồ chua, mát mát của dưa leo, hành ngò à lan khắp vị giác- Đầy đủ chất bột, chất đạm, rau củ, gia vị: Bánh mì thịt Saigon là món ăn có hết các điều kiện đó!


Ngồi buồn gặm ổ bánh mì
Mùi thơm chả quế thầm thì bên tai
Bánh mì hương vị mặn mà
Bỏ tình anh gặm mì gà ba-tê
Bánh mì xá xíu ai chê
Lại thêm xíu mại cho “phê” cõi người
”Xì dầu” anh xịt đã đời
Thừa thiên “ớt hiểm” cho vừa xót xa
Bánh mì thịt nguội có hành
Mua năm tặng một cả làng anh quơ
Cho dù người có thị phi
Yêu đời anh “xực” bánh mì mà thôi…???

Đủ chất bột, chất đạm, rau củ; gia vị. Đủ năng lượng cho một bữa ăn, dù là sáng, trưa , chiều hay tối. Bánh mì thịt Saigon phục vụ đủ mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội. Nó lại thích hợp với hầu bao hạn chế của người bình dân. Tô phở, dĩa cơm, hộp xôi đều mắc tiền hơn một ổ bánh mì thịt. Nhưng cũng có những người lúc túi tiền quá eo hẹp, họ ăn bánh mì không xịt xì dầu hay rắc muối tiêu cho qua bữa.


Thành ra, cũng có người lâu lâu lại thèm ăn bánh mì nướng giòn chấm xì dầu pha loãng với nước, đường, chanh, xắn chút ớt cay cay. Còn những người lao động nghèo, muốn cho chắc bụng thì mua bánh mì chấm hay bẻ thành miếng nhỏ bỏ vào nước lèo của tô phở, tô mì, tô hủ tíu … để ăn no luôn.




Nhớ lai mấy năm ngay sau biến cố 1975, thời kỳ “ bao cấp “, thời kỳ mà khẩu phần lương thực là gạo mốc ăn độn với khoai lang, bo bo và bột mì (bột mì du nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em có mùi mối mọt, mùi cứt chuột…), người ta “ xếp hàng cả ngày “ để đổi bột mì này với mì vắt vụn hay bánh mì chai cứng “ chọi chó cũng lỗ đầu “ do các lò bánh mì công tư hợp doanh cung cấp. Thời kỳ kinh tế tư nhân bị tiêu diệt, thời kỳ mà Saigon lâm vào tình cảnh “ đói “, kiệt quệ, khủng hoảng tinh thần, thiếu thốn đủ thứ, có được chút đường thẻ (đường tán) người ta ăn với thứ bánh mì trên một cách ngon lành cho đỡ thèm chất ngọt, chất bột.





Loại bánh mì hợp tác xã này để chừng nửa ngày là khô queo, không nhá nổi, các bà nội trợ Saigon bèn cắt ổ bánh mì ra nhiều lát đem hấp trong xửng như hấp xôi. Bánh mì mới hấp ra phải ăn liền mới ngon, lúc còn nóng bánh dai nhưng mềm, trét mỡ hành, cuốn xà lách và rau thơm, chấm nước mắm ớt chua ngọt, thả lưa thưa vài cọng đồ chua. Chính ra món bánh mì hấp có từ lâu, là món ăn chơi người ta bán ở mấy chợ. Một dĩa bánh mì hấp gồm vài lát bánh mì, trên mặt có thể là nhân thịt heo bằm trộn củ sắn, hành tây hay nhân bì trộn thính và thịt heo xắt chỉ, trét mỡ hành. Bì có trộn thịt là sang rồi. Bánh mì bì rẻ tiền bán cho nhà nghèo chỉ có da heo trộn thính nên ăn dai dai, cho chút mỡ hành, chan nhiều nước mắm pha cho thấm vào ổ bánh mì.


Sống cho đàng hoàng tôi không cần nhiều lắm
Một lát bánh mì – một hớp nước cũng xong
Một khoảng trời xanh
Và một lời âu yếm yêu thương
Là đủ
Bánh mì và nước
Không hiếm ở mọi nơi


Piper


Trước năm 1975, những học sinh tiểu học của nhiều trường công lập, đến giờ ra chơi, được phát cho một khúc bánh mì không và một ly sữa bột, theo chương trình tài trợ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ăn bánh mì chấm sữa riết cũng ngán, đám học trò nhỏ vo ruột bánh mì thành cục bột nhỏ chọi nhau chơi!





Giới học sinh, sinh

viên thường dùng những chữ: “ cơm tay cầm “,” thổi kèn “ hay gặm để ám chỉ chuyện ăn bánh mì. Cơm tay cầm cho thấy bánh mì rất phổ thông. Động tác nhai bánh mì khá giống động tác của người thổi kèn harmonica. Còn động từ gặm để tả việc ăn một món ăn nào không lấy gì làm khoái khẩu cho lắm (Bánh mì ở đây không phải là bánh mì nóng giòn mới ra lò, có thể đã để lâu, ỉu mềm hay khô khốc, ăn xong phải uống nhiều nước, thành ra no lâu!).


Có những lúc cạn tiền, nhẵn túi, đói meo, thường là cuối tháng, các cô cậu sinh viên chỉ có khả năng mua bánh mì chan nước xíu mại, người bán thương tình cho thêm miếng dưa leo hay cọng ngò hoặc là mua bánh mì trét tương đen, thứ tương ăn phở, thêm chút đồ chua, thế cũng ngon chán!


Còn những lúc trốn học với đám bạn, mỗi đứa thủ sẵn một ổ bánh mì thịt gói trong giấy nhựt trình, một bịch trà đá có ống hút, vô rạp xi nê vừa ăn, vừa xem phim, rồi tán dóc, dzui không gì sánh bằng! Nếu nói bánh mì đi theo ta suốt quãng đời đi học cũng không phải là nói quá!


Còn bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ngồi xổm lan can và gặm bánh mì
Chờ áo trắng tan trường ơi áo trắng
Anh trải thơ tình để lót bước em đi


Bùi Chí Vinh
 
Saigon là nơi khai sinh ra bánh mì thịt: một món ăn của đường phố, một món ăn của vỉa hè với nét độc đáo riêng biệt, không phải nơi nào cũng có thể có được! Sáng, trưa, chiều hay tối, ngồi lề đường, nhai ổ bánh mì, uống ly cà phê, ngắm dòng người và xe cộ qua lại là một thói quen của người Saigon . Bởi vậy, một trong những đặc điểm của Saigon là có vô số kể các xe bánh mì lề đường hiện diện ở bất cứ đầu con hẻm nào, ở bất cứ đầu con đường nào, ở bất cứ giờ nào trong ngày, ở bất cứ địa điểm nào trong thành phố: trường học, nhà thương, công sở, bến xe à Ta đọc bốn đoạn văn sau đây nói về những xe bán bánh mì ở Saigon:


“ Như bánh cuốn, phở, xôi, bún, bánh mì là thức ăn không thể thiếu của nhân dân Sài Gòn. Bánh mì là thứ người ta có thể ăn mọi lúc, ở mọi chỗ, có thể dễ mang theo. Bánh mì có mặt suốt ngày, từ sáng tinh sương đến đêm khuya, và dễ dàng tìm thấy ở bất cứ đầu đường, góc phố nào của Sài Gòn. Đêm khuya khi những tiệm ăn đã đóng cửa, không còn hủ tíu, phở, chè thì xe bánh mì với ngọn đèn leo lét vẫn một mình thức trên vỉa hè đón đợi những khách cần ăn khuya.


Việt Nam không trồng lúa mì, nhưng dân Việt Nam lại thích ăn bánh mì, nên Việt Nam phải nhập cảng bột mì để làm bánh mì và mì sợi “ – Nguyễn Thị Hàm Anh


“ Tôi có anh bạn nhà văn từ Hà Nội vào Sài Gòn chơi. Được dăm ngày, một buổi sáng, khi đang ngồi cà phê vỉa hè, anh chợt đưa ra nhận xét: “Sài Gòn có cái bánh mì là lạ nhất”. Tôi chưa hiểu. Anh giải thích: “ Ở Hà Nội, người ta cũng bán bánh mì nhưng là để trong cái thúng, bưng đi dạo khắp nơi, ai kêu thì ghé lại. Còn ở Sài Gòn, một người bán bánh mì, mỗi bữa dẫu chỉ bán chục cái bánh cũng có một cái xe lắp kính hẳn hoi…”. À, thì ra cái lạ là ở chỗ “cái xe có kính” rất ư đàng hoàng tử tế ấy.


Chưa hết, bánh mì Sài Gòn còn rất ngon và có nhiều sự lựa chọn. Ngán thịt, sợ phì thì kêu bánh mì bì. Muốn bụng nhẹ, mau tiêu thì gọi bánh mì cá. Thích bồi dưỡng một chút thì “đủ thứ”. Còn chỉ cần đủ dinh dưỡng thì “trứng ốp-la” – Trần Nhã Thụy


“ Xe bánh mì truyền thống thường bao giờ cũng có chiều ngang chừng tám tấc đến một thước, rộng chừng năm – sáu tấc. Nửa trên ba phía là kiếng, trưng nào bánh, nào thịt, nào gia vị để nhận vào ổ bánh. Nửa dưới đóng kín thường có một bếp than. Bánh lúc nào cũng nóng. Bánh nhận đủ sắc màu ẩm thực quốc tế bên trong: Xíu mại, thịt quay, pâté, xá xíu, lòng heo, lòng bò khìa, phô mai, thịt ba rọi,…Nhiều xe bánh mì trông đơn sơ vậy, nhưng nổi tiếng cả vài chục năm, ngay một góc đường, hoặc trước một căn nhà.”










“ Còn bánh mì thịt Bưu Điện Sài Gòn thì từ lâu đã là một thương hiêu của Việt Nam . Ổ bánh nhỏ vừa một người ăn hình như làm ra chỉ để bán bánh mì thịt. Mấy xe bánh mì thịt ở đây hình thức trang trí chiếc xe trông như nhau. Nội dung và chất lượng ổ bánh mì đến giá cả không có gì khác, chẳng qua ai quen đâu mua đó mà thôi. Khách đi đường, các bác taxi, các thầy cô làm trong bưu điện, các công chức tòa Đô Chánh… là thực khách trung thành của bánh mì ở đây.







Bánh mì Bưu Điện Sài Gòn một thời tạo ra kiểu ăn bánh mì thịt của người Việt, khiến nhiều ông Tây bà Đầm về nước mà còn nhắc còn thèm. Nên nay còn có nhiều ông Tây du lịch đến Sài Gòn tìm ăn bánh mì thịt, gọi là kiểu Sài Gòn, như là món ăn có “truyền thống Saigòn” vậy.Xe bánh mì thịt với kiểu cách Bưu Điện Sài Gòn sau nầy trở thành mô típ chung cho xe bán bánh mì thịt ở miền Nam. Đi về tỉnh bạn sẽ bắt gặp trước nhà lồng chợ, cửa trường học, bên hông nhà thương, tại bến xe đò… hình ảnh những chiếc xe bánh mì thịt kiểu Bưu Điện Sài Gòn quen thuộc.” – Trần Văn Chi


Thèm ổ bánh mì, ớt cay hít hà
Cháy đỏ phần da thịt trần va chạm
Như lũ song thét gầm khô khốc
Sinh sôi tràn lớp sinh sôi

H

ồi đó, trước cửa Bưu Điện Sàigòn có hai quầy bán bánh mì mà người ta quen gọi là bánh mì Bưu điện, quầy nằm bên phải hình như có tên là Hương Lan (Nguyễn Văn Ngãi), bán những ổ bánh mì con cóc nhỏ trét sốt mayonnaise, kẹp jambon, xúc xích, thêm vài lát dưa leo ngâm giấm ( cornichon của Tây, pickled cucumber của Mỹ),và đặc biệt là thịt gà quay xé nhỏ.


















Nhắc tới ổ bánh mì được làm ngắn, nhỏ lại và tròn như con cóc, kẹp nhân thịt gà quay xé nhỏ của bánh mì Bưu Điện, thì ta cũng không quên nhớ lại tiệm bánh mì con cóc và thịt gà chà bông, có vị ngọt ngọt, mặn mặn rất ngon, nổi tiếng thời đó là Nguyễn Ngọ trên đường Trần Hưng Đạo, quận Nhứt, thời phong trào nuôi gà Mỹ (gà công nghiệp) rộ lên ở các trại chăn nuôi ngoại ô, khoảng sau 1965.







Nói về các tiệm bánh mì lâu năm ở Saigon , phải nói đến tiệm bánh mì Hòa Mã. Năm 1954, vợ chồng thi sỹ Lê Minh Ngọc (tác giả tập thơ hoa Thề, được Giải Thưởng Văn Chương Việt Nam Cộng Hòa, bộ môn Thơ, trước năm 1963) và bà Nguyễn Thị Tịnh di cư vào Nam . Trước đó, bà Tịnh đã làm cho hãng thịt nguội chuyên cung cấp cho các nhà hàng Pháp ở Hà Nội.


Khi vào Sài Gòn, hai ông bà đã có sẵn ý tưởng mở cửa hàng bán bánh mì, thịt nguội để phục vụ cho người Việt trong khu vực. Năm 1958, cửa hàng bánh mì thịt nguội mang tên Hòa Mã (tên một làng ở ngoại ô Hà Nội) ra đời tại số 511 Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu, Q.3). Sau đó hai năm, tiệm dời về số 53 Cao Thắng, cho đến nay vẫn là tiệm bán bánh mì nhỏ với bảng hiệu cũ kỹ, phai màu theo năm tháng, trông giống như một tiệm nước trong Cholon. Tiệm tồn tại trên nửa thế kỷ kể từ ngày thành lập.







Ban đầu, tiệm cũng bán bánh mì riêng, thịt nguội riêng, ăn tại chỗ hoặc mang về. Nhưng người mua thường là công chức, thợ thuyền, sinh viên, học sinh không có nhiều thời gian vào buổi sáng để nhẩn nha ngồi ăn ở tiệm. Thế là Hòa Mã làm ổ bánh mì vừa đủ cho suất ăn sáng dài hơn gang tay, nhét thịt, chả lụa, pa-tê vào giữa để người mua tiện mang theo vào nơi làm việc, lớp học. Cho nên nhiều người cho Hòa Mã là tiệm đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn.











Bánh Mì Hòa Mã ngày nay


Trong khu vực Bàn Cờ, ngoài tiệm bánh mì Hòa Mã, còn phải kể đến tiệm bánh mì Hà Nội cũng thuộc loại nổi tiếng thâm niên, với cơ sở khang trang, sạch sẽ, ngày nay tọa lạc tại 83-85 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 8, quận 3.







Bánh Mì Hà Nội ở SàiGòn


Cũng như chủ nhân bánh mì Hòa Mã, với nghề làm thịt nguội, gia đình ông Lê Văn Đối từ Hà Nội di cư vào Nam, quyết định mở cửa hiệu bánh mì đồ nguội trên đất Sài Gòn, đặt tên là bánh mì Hà Nội để làm kế mưu sinh. Lúc đầu quán nhỏ, vài bàn ghế lụp xụp nhưng bánh mì nóng giòn, dọn bên cạnh dĩa jambon, chả lụa, patê , dưa leo, cà chua, ớt đỏ và sốt mayonnaise tiệm tự làm để riêng. Món đặc biệt của tiệm ngày trước là gà rút xương dồn thịt, jambon và nấm hương. Bánh mì Hà Nội bây giờ trở thành một cửa hàng ăn uống rộng lớn, bán thêm bánh mì kẹp thịt mang đi, bánh ngọt, xôi chè…


Bàn tay bỏ quên túi áo
mân mê cây bút chì
(không có mẫu bánh mì)
tìm nghĩa của từ chẳng thấy


Phan Huyền Thư


Có lẽ không nơi nào có nhiều chỗ bán bánh mì thịt như Saigon ! Đại loại cũng chừng đó nguyên liệu, nhưng mỗi tiệm, mỗi xe bánh mì có một tính cách, một gout riêng, không nơi nào giống nơi nào, hầu như dân Saigon ai cũng có một chỗ “ ruột “ để mua bánh mì mà mình cho là ngon, người ta ăn chỗ nào thì quen chỗ đó, vì lâu lâu mua đại một chỗ nào đó, xui xui gặp bánh mì dở, nhá không trôi, nhưng cũng có khi hên, bất ngờ khám phá ra một chỗ bán bánh mì ngon mới, không biết trước được. Có những xe bánh mì lúc nào cũng có đông người xếp hàng chờ mua, khi đã “ kết “ rồi thì người ta không ngại công chờ ( Chỗ ruột của tôi hồi còn ở Saigon là xe bánh mì Tám Cầu, ở trước rạp xi nê Việt Long, đổi một lần là Văn Hoa Saigon, hai lần là Capitol, sau 1975 thành Thăng Long, nằm trên đường Cao Thắng, quận 3, ngay ngã ba đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần. Đặc biệt của bánh mì Tám Cầu là quét một chút bơ mặn ở một đầu giòn bên ngoài ổ bánh mì thịt).


Hồi trước, các xe bánh mì đậu ở một chỗ như đầu hẻm, hông chợ, gốc cây, trước cửa trường học… Còn bây giờ, chẳng biết từ lúc nào, các xe bánh mì trở t


hành hàng rong, đi bán dạo khắp nơi, mà nghe đâu họ lại không rao mới kỳ!!!








Các xe bánh mì đẩy lưu động này là một trong những phương tiện mưu sinh, cho không biết bao nhiêu người nghèo ở Saigon . Chỉ cần chút vốn để sắm chiếc xe bánh mì đẩy có tủ kính, còn bánh mì không, thịt nguội, chả lụa… được chủ lò cho thiếu gối đầu: bán xong rồi mới trả tiền thì phải! Họ tảo tần, chắt chiu, góp nhặt từng đồng để lo cho gia đình mình.


Bánh mì, nước hay- bầu trời
Coi như tôi chưa có trên này
Dù thời gian qua tôi đã sử dụng rất nhiều
Bánh mì và nước


Piper


Bánh mì ở Saigon hiện nay phải nói là phát triển đến chóng mặt: thiên hình, vạn trạng về “hình thức “ cũng như “ nội dung “. Ngoài vô số kể những xe bánh mì đẩy rong ruổi khắp nẻo Saigon, những xe bánh mì ngon nổi tiếng, tọa lạc tại một vị trí cố định cũng rất nhiều như: Ba Lẹ (Tân Định), Sáu Minh (Võ Văn Tần), Lan Huệ (Lê Văn Sỹ)à Ta còn phải nói đến số lượng các tiệm bánh mì mọc lên như nấm!







Các tiệm bánh mì có tiếng tăm lâu năm, nhiều người biết đến như: Ngọc Sáng (Lý Tự Trọng – Gia Long, Q1), Anh Phán (Cống Quỳnh, Q1) , Hà Nội (Nguyễn Thiện Thuật, Q3), Như Lan ( Hàm Nghi, Q1). Như Lan trước đây là m ột tiệm nhỏ, sau vài chục năm, đã chiếm một miếng đất bề thế ở mặt tiền đường Hàm Nghi, gồm ba cửa hàng ăn uống, ngày đêm tấp nập khách, ngoài bánh mì thịt họ còn bán đủ thứ, như một mini restaurant: heo vịt quay, xôi chè, bánh ngọt… và các món nước gồm cháo, miến, phở…


Các tiệm chuyên môn bánh mì bí tết (bifteck) như :Nam Sơn (Nam Kỳ Khởi Nghĩa- Công Lý, Q1), Hỏa Diệm Sơn (Võ Văn Tần – Trần Quý Cáp, Q3)…







Bánh mì giờ bán trong các tủ kiếng sáng choang, của các tiệm bánh mì trang trí lịch sự, bắt mắt, có máy lạnh, có wifi miễn phí, nhân viên mặc đồng phục, phong cách phục vụ chuyên nghiệp. thích hợp cho các dịch vụ gặp gỡ làm ăn hay hẹn hò à Các tiệm trang bị đầy đủ lò nướng, quầy bếp, tủ trữ lạnh… bảo đảm vệ sinh, sạch sẽ. Mỗi phần bánh mì được đựng trong túi giấy, có khăn giấy và tăm. Bánh mì thịt giờ được bán theo hình thức món ăn nhanh (fastfood) trong các tiệm bánh mì hiện đại như: bánh mì Ta (Lê thánh Tôn), King Baguettera (Trần Hưng Đạo), Bamizon(Nguyền Văn Chiêm) và các hệ thống nhiều tiệm là bánh mì Góc Phố (Bread Corner), bánh mì Onoré, bánh mì Kinh Đô, bánh mì ABC…







Bánh Mì Như Lan


Bánh mì “ ngoại “ du nhập, được giới trẻ Saigon tiếp đón nồng nhiệt. Đầu tiên là bánh mì baguette thực thụ bán ở siêu thị Cora, với hệ thống Le Bon hương vị Pháp, bánh mì Chop Chop phong cách Tây nguyên bản, bánh mì bát Bistro, bánh mì Tous les Jours (Hàn quốc), bánh mì Love Bread (Singapore), bánh mì Schneider(Đức). Le Tokyo Baum (Nhật)à Hàng loạt cửa hàng gọi tên là bakery& café với phong cách trẻ trung, hiện đại được ồ ạt mở ra, cạnh tranh nhau khá khốc liệt, tạo cho khách hàng có nhiều lựa chọn. Phần lớn các cửa hàng bakery&café này nằm trong quận 1 và quận 3, là khu dân cư có thu nhập cao, khách vãng lai nhiều, tập trung nhiều cao ốc văn phòng.






Tổng Thống Obama cũng mê Bánh mì Saigon


Phải nói thêm loại bánh mì thịnh hành của Saigon bây giờ là “ bánh mì tươi “. Bánh mì làm tại chỗ, khi khách gọi, thợ mới nướng trong lò điện nhỏ, mỗi mẻ chỉ chừng chục ổ, để bảo đảm sự tươi mới của bánh. Bánh bưng ra còn nóng hổi, đặc ruột, không giòn như bánh mì thường, thơm mùi bơ phưng phức. Để sản xuất loại bánh mì tươi này, tiệm có công thức riêng và nguyên liệu đặc biệt nhập cảng từ Pháp


Nếu mỗi bài thơ tôi đổi được một khúc bánh mì
Hoặc một gói xôi mặn, lơ thơ vài lát chả mỏng, nhúm ruốc gà, tí mỡ hành…
Tôi sẽ chịu khó hì hục đánh vật nhiều hơn trên keyboard
Gieo cho bằng được một vần thơ tuyệt hảo


Đào Công Điền


Em kêu tiếng Mẹ, Cha trên vành môi ngọng nghịu
Ăn bánh mì thay thế phở với cơm
Ấy mà phía sau tà áo dài lễ hội
Chiếc eo thon dịu dàng còn rất đỗi Việt Nam


Lã Thế Phong


Theo anh Kevin Trần, điều hành tiệm Bánh mì Saigon thì:” Khách muốn giữ bánh mì cho lâu hư, thì mua về nên để bánh trong bao nylon cột lại, cho vào ngăn đá tủ lạnh. Mỗi khi muốn dùng để ra ngoài chừng 5 phút, rồi đặt vào lò có sẵn hơi nóng trong vòng 3 phút, đủ để bánh mì tươi giòn lại. Tuyệt đối không nên nướng lại vì độ nóng sẽ làm bánh mì bị cứng, và đưa vào miệng nhai thì bánh bị bể, rơi ra “.

Xuân Hương

NGHỆ THUẬT CẮT HÌNH

Nghệ thuật cắt giấy tinh xảo đáng kinh ngạc
 

Những mảnh giấy mỏng manh nhưng dưới bàn tay của Parth Kothekar đã cho ra những kiệt tác, hơn nữa chính xác đển cả chi tiết rất nhỏ.
 



Một tác phẩm của Parth Kothekar.
Ảnh: Bored Panda

 
Parth Kothekar, một chàng trai ở Ahmedabad (Ấn Độ) đã sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo thông qua nghệ thuật cắt giấy.

Parth nói các tác phẩm của anh lấy chất liệu từ cuộc sống hàng ngày. Anh có thể tạo ra những hình cắt với chi tiết tinh xảo, đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mẩn.

Đối với chàng nghệ sĩ này, những vật có hình dáng càng khó cắt sẽ càng tạo ra động lực để anh cố gắng nhiều hơn. Ban đầu, anh chỉ định cắt giấy như một thú vui mỗi khi rảnh rỗi. Nhưng rồi các bạn bè thân gợi ý cho anh biến sở thích thành một công việc kiếm ra tiền và tiếng tăm.


 
Một số hình ảnh do trang Bored Panda đăng tải:




Lông vũ.



Cô gái búi tóc.



Chuồn chuồn.



Cô gái với mái tóc dài thướt tha.



Rắn hổ mang.



Mặt dây chuyền.




Con báo bằng giấy.



Các tác phẩm của Parth có cấu trúc phức tạp.



Tờ tiền do Parth cắt bằng giấy.



Dây kẽm gai.



Dream-catcher bằng giấy.



“I love you mom”.



Chú chim công.



Những bông hoa nhỏ.



Cọp, voi và tê giác.
Sent from my iPad

CHUYỆN CƯỜI XHCN



Có cái con mẹ gì... mà có Thành Phố Hồ Chí Minh!!!

(Chuyện có thật 100%)



Tại phi trường Tân Sơn Nhất, một Công An Hải Quan khám xét giấy tờ một bà từ nước ngoài về.
Công An xem giấy tờ, hất hàm:
- Sanh đẻ ở đâu?
Bà kia không trả lời. Công An hỏi lần nữa, bà ta tức giận:
- Ông hỏi gì mà bất lịch sự thế!
Chợt hiểu ra, Công An vội nói:
- Tôi hỏi bà nơi sanh chốn ở!
Bà kia cụt ngủn:
- Sài Gòn
Tên Công An:
- Thành Phố Hồ Chí Minh!
Bà kia độp ngay:


- Lúc tôi sanh ra, có cái con mẹ gì... mà có thành phố Hồ Chí Minh, khai sanh và căn cước từ xưa cho đến nay ở nước ngoài đều ghi là Sài Gòn, chẳng có ghi là thành phố Hồ Chí Minh nào cả!
Tên Công An tức đỏ mặt tía tai.
Những khách du lịch về VN đứng gần nghe câu chuyện ai nấy đều tủm tỉm cười.



**********************************************


Nguyễn phú Trọng sang Mỹ gặp Obama và hỏi:


"Ông làm sao mà điều hành được một chính phủ hiệu quả như thế?"
Obama trả lời:
"Rất đơn giản, ngài chỉ cần được vây quanh bởi những người thông minh".
Nguyễn phú Trọng lại hỏi:...
"Thế làm sao ông biết được ai là người thật sự thông minh?"
Obama trả lời: "cũng dễ thôi, ông chỉ cần đố họ câu hỏi thông minh", nói xong đoạn nhấn nút yêu cầu tiếp tân mời John McCain vô...
Hai phút sau John McCain vô và nói:
"Thưa Tổng thống, ngài gọi tôi".
Obama hỏi
"Hãy cho tôi biết, John McCain, ba mẹ của ông có đứa con, nó không phải anh em của ông, không phải chị em của ông, vậy nó là ai?"
John McCain trả lời: "Thưa ngài, đó là tôi".
Obama trả lời: "Chính xác! Rất tốt".
-Nguyễn phú Trọng trở về nước và kêu Nguyễn Tấn Dũng vào hỏi:
"Chú Dũng, cha mẹ chú có đứa con, nó không phải anh em của chú, cũng không phải chị em của chú, nó là ai?
Nguyễn tấn Dũng trả lời: "Em cũng chưa chắc, em sẽ trả lời sau".
Nguyễn tấn Dũng họp hết nội các lại và hỏi câu hỏi đó mà không ai trả lời được... Hỏi vòng vòng không xong, cuối cùng ở nhà vệ sinh Nguyễn tấn Dũng gặp Ngô Bảo Châu và hỏi:
"Thầy Châu, có thể trả lời tôi, cha mẹ thầy có đứa con mà nó không phải anh em thầy, nó cũng không phải chị em thầy, thế nó là ai?"
Ngô Bảo Châu trả lời:"Dễ mà! đó là tôi".
Trở lại gặp Nguyễn phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng nói hớn hở:
"đó là Ngô Bảo Châu",
Nguyễn phú Trọng tức giận chòm tới vố vào đầu Nguyễn tấn Dũng và thét to:
"đồ ngu! là John McCain!"
Nguồn Thanh Lan.
Ảnh của Lê Hoàng.


NGUYỄN QUÝ ĐẠI * TRÂU TRONG ĐỜI SỐNG

TRÂU TRONG ĐỜI SỐNG Nguyễn Quý Đại 
Mùa Xuân ấm áp, cỏ cây đâm chồi nẩy lộc dưới nắng hanh vàng, buổi sáng tinh sương mặt trời chưa thức giấc đã nghe tiếng chim hót líu lo trên những cành cây xanh lá. Ong bướm bay lượn trong gió xuân thơm ngát mùi hoa, cảnh vật xinh tươi làm con người có cảm giác phơi phới yêu đời, hòa nhập với thiên nhiên. Nhưng ở Âu Châu lễ Giáng sinh và Tết dương lịch (Tết âm lịch vào ngày 26.01.2009) trong mùa Đông giá lạnh, , khác bên quê nhà Việt Nam những ngày Tết rộn ràng nắng ấm. Hồi tưởng lại mùa xuân quê hương, kỷ niệm xa xưa vẫn còn trong ký ức cuả mỗi chúng ta khó có thể phôi pha với không gian và thời gian. Nên những lần Tết âm lịch đến, người Việt ở hải ngoại đều tổ chức Tết cổ truyền theo phong tục Á châu và thực hiện những giai phẩm xuân. Theo quan niệm từ xưa tới nay người nào sinh vào năm của hàng Địa-Chi hay hàng Thập Nhị Can Chi thì mang tuổi thuộc con vật đó. Tính theo âm dương, 12 con giáp được chia thành hai cực âm và dương, trong đó con trâu (Sửu) thuộc âm. Trong khi kết hợp với thiên can, bao giờ những con vật mang tính chất âm cũng được kết hợp với yếu tố âm và những con vật mang tính chất dương cũng được kết hợp với yếu tố dương của thiên can. Những yếu tố âm của thiên can (còn gọi là thập can) là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Những yếu tố thuộc dương (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm). Như vậy, Sửu trong địa chi (thập nhị chi) chỉ được kết hợp với: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Do đó, chỉ có những năm Sửu là: Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu và Quý Sửu chứ không thể có những năm Sửu khác. Sửu dùng để chỉ thời gian từ 1 giờ tới 3 giờ sáng (đêm năm canh ngày sáu khắc). Tôi sưu tập tài liệu về trâu gởi đến độc giả, trâu gần với đời sống nông nghiệp Việt Nam từ nhiều thiên niên kỷ, hình trâu được khắc trên trống đồng thời Đông Sơn.
Họ hàng nhà trâu trong khoa học
Trâu thuộc bộ nhai lại (Ruminantia)
Giới (Kingdom, regnum) động vật (Animalia)
Lớp (class) động vật có vú (Mammalia)
Bộ (order) bộ guốc chẵn (Artiodactya)
Họ (Family) trâu, bò có sừng Bovidae
Phân bộ họ bò (Boviae)
Chi (genus) trâu (Bubalus)
Theo tài liệu trâu rừng sống trên Châu lục là tổ tiên của các loại trâu nhà.Trâu rừng ở Á châu được chia làm 2 loại: Wild Asiatic Buffalo, Wild Water Buffalo (Bubalus arnee) các loại trâu được thuần hoá thành trâu nhà: House water buffalo (Bubalus bubalis) Water Buffalo, Asian Buffalo, Asiatic Buffalo, Indian Buffalo .
Trâu rừng sống từ bán đảo Ấn Độ đến Trung Hoa, đầu tròn dài từ 240-300 cm, đuôi lông cứng dài 60-90 cm, vai cao từ 150-190cm, sừng dài nhọn và cong. Trọng lượng từ 800-1200 kilo, lông màu đen, xám hay nâu, có thể sống đến 25 năm, thường sống chung với nhau một bầy cùng ăn, cùng ngủ bảo vệ lẫn nhau, có những con trâu đực "đầu đàn" to con mạnh sừng dài nhọn chống lại các loại thú dữ khác, (đời sống, tập tính các loại trâu rừng đều giống nhau). Trâu cái hàng năm, sinh một con nghé thời gian chửa đẻ hơn 310 ngày. Hiện nay chỉ còn một số ít sống ở trên rừng Đông Nam Á: Thái lan, Việt Nam, Lào, Malaysia, Sri Lanka, Borneo, Birma và Cambodscha.
-Trâu lùn Anoa nhỏ con ở Đông Nam Á gồm các loại: trâu lùn đồng bằng Anoa
(Bubalus depressicomis) trâu lùn miền núi Anoa (Bubalus quarlesi); còn các loại trâu lùn Tamarau,Tamaraw, Tamarao, Mindorol (Bubalus mindorensis), những khảo cứu về các loại trâu ở: Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tây, Đông Nam Á và Úc Châu cho thấy quá trình thuần hoá, phối giống khác nhau. Hình dạng trâu nhà lớn nhỏ theo từng điạ phương, sừng, màu da cũng khác nhau, trâu nước (Water buffalo/ Bubalus arnee) hơn 150 triệu con được thuần hóa trên thế giới. Ở Việt Nam có giống trâu nhà tên khoa học gọi là Buffalusindicus. Người Việt chọn và lai giống nhiều loại, trâu nhỏ con để kéo cày, loại to con để kéo gỗ, trâu da xanh đen, xám sẫm, nâu, vàng nhạt, có loại da sáng hồng, lông màu trắng, nên người ta gọi "trâu trắng, trâu đen". Sừng dài, ngắn cong khác nhau để sống phù hợp với thiên nhiên, da trâu mướt láng bóng dày, tuyến mồ hôi không phát triển và không thoát ra ngoài được nhiều để hạ nhiệt cơ thể, để giải nhiệt chúng có thói quen thích nằm nơi nào có nước hay sình lầy, cho nên những lúc không khí mùa hè nóng sau khi cày ruộng, thân nhiệt tăng cao, oi bức khó chịu, miệng trâu thở ra bọt trắng, phải dầm mình trong nước. Răng trâu chỉ có một hàm dưới, lưỡi dài quơ lá, cỏ, cả thân cây đưa vào miệng rồi nghiến bằng hàm, dạ dày trâu có bốn ngăn để chứa thức ăn và nhai lại, chân có hai móng. Trâu rừng nhìn chung giống trâu nhà nhưng có vóc sừng rộng và dài hơn, chúng di động nhanh và nhẹ nhàng hơn trâu nhà. Khí hậu ẩm thấp của rừng nhiệt đới không làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của trâu, nhưng năm qua mùa đông ở miền Bắc Việt Nam quá lạnh đã làm cho hàng ngàn con trâu chết rét.
Trên thế giới quốc gia nuôi trâu nhiều nhất là Vùng Tây Bắc Ấn độ có nhiều loại. Hơn 77 triệu con gồm hàng chục giống trâu khác nhau như: Murrah, Nilli Ravi kundi, Surji, Mehsana, Jafarabadi, Kelabandi, Sambaipur...Loại trâu Murrah sừng xoắn, có nhiều nơi trên thế giới nhưng không chịu được nóng, Người Ấn thờ bò nên phát triển nuôi trâu để kéo cày, ăn thịt lấy sữa vì sữa trâu có ít Cholesterin trong lúc sữa bò có đến 3,14mg và nhiều chất: Kalzium, Eisen, Phosphor và Vitamin A. Hầu hết 90% trâu sinh sống ở Đông Nam Á Châu
Ở Trung quốc cũng như Tibet (Tây Tạng) có loại trâu Yak (có người gọi là bò) thân dài 3,25m cao 2m, nặng hơn1000 kilo, sức khỏe dẻo dai lông màu: đen, đỏ nâu trắng, nhờ nhiều lông nên chịu đựng được thời tiết giá lạnh, trên dãy Hy Mã Lạp sơn, núi Alpen hay Canada. Đức Đạt La Lạt Ma thứ 14 (Dalai Lama) ngày 17.4.1959 ngài bỏ trốn khỏi cung điện ở Lhasa, vượt đèo núi sang tị nạn đến Dharamsala Ấn độ, trên đường bị bệnh tiêu chảy ngài phải cưỡi loại trâu Yak (Bos mutus).
Các Quốc gia Luỡng Hà, Caucacus (Nga) cho tới vùng Balkan nuôi nhiều loại trâu để lấy sửa và ăn thịt. Những loại trâu nầy lông da xám đen, rất ít màu hung đỏ có đốm trắng ở đầu, chân và đuôi, đôi khi loang trắng ở mình, sừng dài xoắn uốn cong thành hình lưỡi liềm.Ai Cập loại trâu thường thấy là: Beheri và Saidi sừng ngắn hơi cong về phía sau.
Tại Mỹ có loại trâu rừng American bison hay trâu của dân da Đỏ Indian buffalo (Bision bision) chủng loại Wisent (Bison bonasus) và Waldbison (Bison bison athabascae) sống ở Canada đến miền Đông nước Mỹ. Loại Präriebison(Bison bison bison) ở Mexiko, Rocky Moutains đến vùng Mississippi loại trâu rừng Bisons 350.000 con, ngày nay tìm thấy còn ở Nationalparks. Các loại trâu rừng ở Mỹ lông màu nâu sẫm có chấm trắng, mùa đông lông màu đen và mọc dày hơn, muà hè thay lông đen nhạt thưa hơn, đầu con đực dài 380 cm con cái 240cm, thân dài 3,8 m cao 1,95 đuôi dài 90cm, sừng ngắn, nặng hơn 900 kilo, bơi giỏi và chạy nhanh tốc độ 50 Km/H. Có râu dài, phần trên lưng xuống cổ, trên đầu và hai chân trước nhiều lông dài hơn 50cm và sống thọ 25 năm
Phi Châu có nhiều loại trâu:
Afrikanische Büffel/ African buffalos (Syncerus caffer)
Schwarzbüffel/ Black buffalo (Syncerus caffer caffer
Rotbüffel/ Red buffalo (Syncerus caffer nana)
Waldbüffel/ Forest buffalo (Syncerus caffer nanus)
Steppenbüffel/ Steppe buffalo (Syncerus caffer caffer)
Grasbüffel/ Grass buffalo (Syncerus caffer brachyceros)
Trâu rừng Phi châu sống rừng nhiệt đới, rừng thưa nhiều cỏ. Đầu tròn dài 210-340 cm, đuôi dài 70-1,10 cm, cao từ 100 -170 cm sừng dài nhọn và cong, trọng lượng 320-1000 Kilo lông màu nâu đen hay nâu đỏ, sống 16 năm nhưng nếu nuôi ở sở thú được chăm sóc có thể sống tới 26 năm. Trâu đỏ red buffalo có thể sống trên núi cao 4000m.
Trâu qua thi ca
Con trâu đã xuất hiện trong kho tàng văn học dân gian: ca dao, đồng dao, tục ngữ, câu đố, nhiều truyện cổ tích và huyền thoại...
Từ thời thượng cổ người Việt sống về nông nghiệp, biết lấy nước sông để canh tác, những cánh đồng lúa bùn lầy, không thể dùng bò hay ngựa để cày ruộng, chỉ trâu giúp cho nông dân kéo cày bừa ở ruộng nước.Vào đầu năm theo lệ vua làm lễ tế thần nông và cày ruộng tịch điền, làm lễ xong vua cầm cày, đường cày tượng trưng mở đầu cho một năm cày cấy được mùa. Hình luật đời Lý, đời Trần rất nghiêm minh, ai ăn trộm hay giết trâu bò bị phạt nặng. Trâu không thể thiếu trong việc canh tác của nhà nông, trâu là đầu cơ nghiệp nên, tình cảm qua thi ca con trâu thường được nhắc đến
Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở, đuổi trâu ra cày
Cuộc sống thay đổi, chúng ta ở hải ngoại làm việc trong các công ty, khó thấy cảnh con trâu ung dung gặm cỏ bên bờ ao, nhưng nếu đọc những câu ca dao nói về cảnh đồng quê gió mát, liên tưởng đến lỗ chân trâu trên con đường làng bé nhỏ, tiếng gà gáy ban mai gợi nhớ một chút kỷ niệm khó quên.
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày nối nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Vốn sẵn có tình thương đối với gia súc, người nông phu đã nói với con trâu khi dắt trâu ra đồng
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn cho béo trâu cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần
Người nông dân đã đặt địa vị con trâu ngang với sinh hoạt trên cánh đồng, xưa và nay con trâu là một tài sản trong gia đình nông dân nghèo,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa
Rạng ngày vác cuốc ra đồng
Tay cầm mồi lửa, tay dòng thừng trâu
Ruộng dầm nước cỏ bùn sâu
Suốt ngày cùng với con trâu cày bừa
Việc làm chẳng quản nắng mưa
Cơm ăn đắp đổi muối dưa tháng ngày.
Con trâu còn gắn liền với tuổi thơ của trẻ em nông thôn tắm trâu, cưỡi trâu, ra đến miền quê chúng ta thấy hình ảnh quen thuộc của những chú bé mục đồng chăn trâu "Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, qua ca dao còn có chuyện thằng Bờm và thằng Cuội chăn trâu
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ bên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
Thằng Bườm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu...
Huyền thoại Ngưu Lang Chức Nữ, với chiếc cầu Ô Thước (Ô là con quạ, Thước là con chim Khách). Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Thượng đế vì say mê một tiên nữ dệt vải tên là Chức Nữ, nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần trên cầu ÔThước vào đêm mùng 7 tháng Bảy. Lúc chia tay nhau cả hai đều khóc, nước mắt của họ rơi xuống trần gian thành cơn mưa nhẹ gọi là mưa Ngâu
Mồng bảy tháng bảy mưa Ngâu
Con trời lấy chú chăn trâu cũng buồn
Người nông thân mật giúp đỡ lẫn nhau, bà con hàng xóm trở thành gắn bó, liên kết chặt chẽ với nhau, họ cảm thấy cuộc sống thoải mái, thân thương với môi trường sinh hoạt đầy ắp tình người, tình xóm giềng, nghĩa đồng hương. Đời sống nông nghiệp quanh năm vất vả, nên nhà nông thường ăn Tết lâu hơn thành thị, họ chọn tháng tư để đi mua bò trâu lo cho việc cày cấy
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm....
Dân tộc thiểu số có những lễ hội đâm trâu tế Thần, Tết trâu, xem trâu là Thần linh... Đồ Sơn bãi biển đẹp nổi tiếng về cờ bạc, cũng có ngày hội truyền thống chọi trâu
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu
Tục ngữ cũng thường ví von về trâu, với những lợi ích thực tế như: muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn bại nuôi bồ câu. Hàng năm trâu nái đẻ một con nghé có thể bán hay nuôi lớn để cày bừa, loại chim bồ câu chỉ ăn hại (luá thóc đi đâu bồ câu theo đó), ngày nay người ta dùng biểu tượng con bồ câu cho hoà bình vì nơi nào giàu có no ấm dư thừa lúa gạo thì có bồ câu. Những con trâu dáng đẹp như: Trâu hoa tai, bò gai sừng, hoặc trâu chóp tóc, bò mũi mấu... ám chỉ những con trâu khỏe thì giá bán càng cao. Thời nay những người lớn tuổi thích về quê lấy vợ trẻ, người ta gọi trâu già thích cỏ non, hay trong những liên quan xã hội như: trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, hay sự ganh ghét lẫn nhau, trâu buộc ghét trâu ăn; trâu chậm uống nước đục, trâu ngờ ăn cỏ béo; trâu cổ cò, bò cổ giải; trâu chết mặc trâu, bò chết mặc bò, củ tỏi giắt lưng; trâu dắt ra, bò dắt vào; trâu trắng đi đâu mất mùa đến đấy; trâu đi tìm cọc, cọc chẳng tìm trâu; trâu ho bằng bò rống; trâu khoẻ chẳng lo cày trưa; bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy; trâu lành không ai mặc cả, trâu ngã khối kẻ cầm dao; trâu chết để da, người chết để tiếng v & vv
Theo truyền thuyết thì trâu biểu hiệu sự sống lâu. Lão Tử (Lao Tsu) soạn Đạo Đức Kinh sinh vào thế kỷ thứ 6 trước CN (thời Chiến Quốc), Lão Tử khi về già nhận thấy chính sự của vương quốc đang tan rã đã cưỡi trâu xanh đi về hướng Tây qua đồi núi đến nước Tần và từ đó mất dạng. Tôn Tẩn là cháu của Tôn Tử (Sun Tzu) đời Xuân Thu (722-481 trước CN) Tôn Tẩn và Bàng Quyên là bạn đồng môn cùng học binh pháp, Bàng Quyên xuống núi trước được Huệ Vương nước Ngụy trọng dụng, Tôn Tẩn đến sau Bàng Quyên sợ Tôn Tẩn hơn mình tìm cách hãm hại... sau đó Tôn Tẩn trốn qua nước Tề được trọng dụng làm quân sư cho Điền Kỵ. Trả được thù xưa, trong trận thư hùng ở Mã Lăng. Quân Bàng Quyên bị tên bắn trong đêm tối thua bỏ chạy Bàng Quyên phải tự tử, quân sư Tôn Tẩn thường ngồi xe, còn có giai thoại ông cưỡi trâu ra trận (sử ký Tư Mã Thiên trang 229 viết Tôn Tẩn bị Bàng Quyên ghét bỏ vì sợ Tôn Tẩn hơn mình mượn pháp luật trị tội chặt chân và chạm vào mặt.. nhưng truyện Xuân Thu Oanh Liệt thì viết khác?) Có thể cưỡi trâu an toàn hơn ngựa? Trần Tế Xương với cái thú cưỡi trâu:
Được tiền mua rượu
Rượu xong cưỡi trâu
Cưỡi trâu thế mà vững
Có té cũng không đau
Gia Cát Lượng Khổng Minh (181-234 trước CN) trong binh pháp dùng "mộc ngưu lưu mã" chế ra những con trâu gỗ, ngựa máy (?). Khi gắn cái lưỡi vào thì trâu gỗ cử động để vận chuyển lương thực trong thời gian đánh với Tư Mã YÙ. Khi Tào Tháo vượt qua sông vị bỗng bị Mã Siêu đuổi theo. Tháo bị nguy kịch dù tướng Hứa Chử hết lòng bảo vệ. Đứng trên núi viên tri huyện Vi Nam là Đinh Phỉ bèn sai lính mở cổng trại thả hết trâu ra. Quân Mã Siêu đua nhau cướp trâu, quên việc đuổi đánh, thành ra Tào Tháo được trâu thế mạng và thoát nạn.
Điền Đan danh tướng nước Tề, bị quân Yên vây thành, nhờ thu trong thành được hơn một nghìn con trâu, lấy vải quấn lên mình trâu, vẽ vằn rồng ngũ sắc, buộc mũi nhọn ở đầu sừng, cột cỏ khô, bông lau tẩm dầu mỡ vào đuôi như một cái chổi lớn. Sai dân chúng đào thành mấy chục chỗ làm hang, ban đêm dồn trâu chui qua hang ra ngoài thành rồi đốt những bó cỏ sau đuôi trâu. Đuôi trâu cháy nóng, trâu nổi điên xông vào quân Yên, cùng năm ngàn binh sĩ phá trại giặc, quân Yên thua trận...
Trong lịch sử chuyện Đinh Bộ Lĩnh (924-979) lúc nhỏ chăn trâu, dùng cờ lau tập trận lớn lên có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước năm 968 lên ngôi Hoàng Đế. Đào Duy Từ (1572-1834) bị cấm thi nên bỏ Chúa Trịnh vào Nam giai đoạn đầu nghèo khó, phải chăn trâu cho phú hộ Trịnh Long ở Hoài Nhơn, Bình Định sau được Trần Hoài Đức biết ông giỏi chữ mời dạy cho các con, và gả cho con gái. Đào Duy Từ, trong thời kỳ chăn trâu đã viết "Ngoạ Long Cương vấn". Sau đó được chúa Nguyễn trọng dụng, có công xây thành đắp lũy, Lũy Trường Dục và lũy Nhật Lệ ( tức lũy Thầy để chống lại chúa Trịnh Đàng ngoài. Huyền thoại Trạng Quỳnh cho đấu trâu với Tàu, thắng về mưu trí, trâu Tàu to hung dữ nhưng phải chạy thua trước một con trâu nghé. Ông đồ Nguyễn Văn Lạc (1842-1915) thời Pháp chiếm Việt Nam, nhìn thấy giới Sĩ phu thiếu tinh thần yêu nước, cúi đầu làm nô lệ cho bọn thực dân, nên ông đã vịnh bài con trâu năm 1862.
Mài sừng cho lắm cũng là trâu
Ngẫm lại mà xem thật lớn đầu
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cằm lém dém một hàm râu
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy
Làm lễ bôi chuông nhớn nhác sầu (1)
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn gảy biết chi đâu!
                           (1) - Đời xưa lấy máu trâu bôi vào chuông mới đúc cho khỏi nứt
 
Trâu trong những tác phẩm văn học, tranh vẽ, phim. Tranh Chăn Trâu Đại Thừa.(Munual of Zen buddhism) của tác giả Daisetz Teitaro Suzuki minh hoạ, 10 bức tranh chăn trâu "Thập mục ngưu đồ" nói lên việc chăn trâu cho sự điều tâm. Trên đồng tiền Đông Dương thời thuộc điạ Pháp, cũng như tiền của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam đều in hình con trâu. Tác phẩm Con trâu của Trần Tiêu xuất bản năm 1940 nói lên sự khổ đau của người dân dưới chế độ thực dân và phong kiến. Con trâu không thể thiếu trong truyện Lục Súc Tranh Công. Đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh sản xuất phim Mùa len trâu (Buffalo Boy) dựng phim theo truyện Hương rừng Cà Mau của cố nhà văn Sơn Nam, phim diễn tả lại đời sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Vào mùa nước lũ phải vất vả dắt trâu sang vùng khác tìm cỏ cho trâu ăn.
Ở Việt Nam sau 1975 nhà xuất bản Văn Học dịch tác phẩm "Ruồi trâu/ The Gadfly" của nhà văn nữ người Anh E.L. Voynich. Sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười của Nga "Ruồi Trâu" được phổ biến rộng rải, bởi vì cộng sản theo chủ thuyết duy vật, vô thần cho tôn giáo là ảo tưởng là kẻ thù, nên đảng CS Nga lợi dụng tác phẩm tiểu thuyết hư cấu, đề cao nhân vật Arthur "Ruồi Trâu" là người thanh niên hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cách mạng, nhằm đánh bóng chủ nghiã cộng sản quốc tế chống lại các tôn giáo.
Có vài ba địa danh mang tên trâu như Bến Nghé (Sài Gòn xưa) Hà Nội có sông Kim ngưu, núi Cấm (Bảy núi) thuộc xã An Hào có miếu thờ "trâu dũng nghiã"...Hình con trâu chạm khắc khá phổ biến ở những đình, miếu cổ. Chuyện vui thời đại "làm thịt trâu". Người em từ nước ngoài về thăm chị ở vùng quê, buổi sáng người chị đi chợ đưá con út đòi đi theo, người chị bảo "con ở nhà với cậu, mẹ đi chợ về thịt trâu cho con ăn". Người em ngạc nhiên người chị hứa mà không làm? thắc mắc hỏi: tại sao chị nói dối với cháu làm thịt trâu, trẻ con cần dạy cho nó thành thật có nói có, không nói không ...người chị không ngần ngại trả lời "xã hội bây giờ từ trên xuống dưới đều nói láo... mình hứa làm thịt trâu cho vui với trẻ con là chuyện nhỏ, hơi đâu cậu bận lòng"
Lợi ích của trâu
Năm 1840 nhà bác học Đức Justus Liebig áp dụng hoá hữu cơ vào nông nghiệp và sinh lý học là một cuộc cách mạng cho nông nghiệp, ông là người khai sinh ra phân hóa học cho nông nghiệp ở Âu châu, nhưng nông dân Việt Nam nuôi trâu lấy lá cây bỏ vào chuồng làm phân bón ruộng rất tốt. Những quốc gia Âu Châu không ăn thịt hay uống sữa trâu, nhưng các quốc gia khác dùng trâu trong nghề nông, kéo xe kéo gỗ. uống sữa, và nuôi trâu để ăn thịt. Sừng trâu làm thủ công nghệ như: lược, tù và, cán dao, cúc áo....da trâu để bịt trống, làm giày, da trâu nấu thành a dao "ngưu dao ẩm" ngâm trong dung dịch vôi để quét tường hay pha với bột màu vẽ tranh không bi lem màu. Nghề Đông y dùng răng trâu "ngư xỉ", nước dãi trâu "ngưu khẩu tần", sỏi mật, sạn mật của trâu "ngưu hoàng" sao chế làm những vị thuốc để trị bệnh. Bác sĩ người Anh Edward Jener thí nghiệm đầu tiên năm 1796 cấy vaccin trên trâu thành công để chống bệnh đậu mùa.
Những quốc gia văn minh phát triển về khoa học kỹ thuật, ngườì ta sản xuất máy cày, máy xới, máy bơm nước giúp cho ngành nông nghiệp đỡ vất vả và sản xuất lúa gạo nhiều hơn, ngược lại các quốc gia chưa phát triển trong đó có Việt Nam, sau 34 năm thống nhất đất nước nhờ "đỉnh cao trí tuệ", vẫn còn sử dụng trâu trong việc canh tác. Năm Mậu Tý con chuột láu lỉnh, không những gặm nhấm thực phẩm của con người, mà còn ăn đến cả tiền bạc, đất đai làm cho thị trường tài chánh khủng hoảng, kinh tế suy thoái để đời sống dân nghèo thêm gian nan, khốn khổ,
Năm Kỷ Sửu 2009, con trâu ăn cỏ dù chậm chạp nhưng sức khỏe tốt làm việc siêng năng, sẽ giúp con người vượt qua khó khăn, phục hồi kinh tế mang lại yên vui. Chúng ta nên quên đi những buồn phiền năm cũ, cùng đón mừng một muà Xuân hy vọng nhiều thành công và tiến triển tốt đẹp hơn năm qua. Kính chúc gia đình độc giả luôn bình an và may mắn
Tài liệu tham khảo
Das Tierlexikon và Natur Lexikon
Sử Ký Tư Mã Thiên
Xem tướng 12 con giáp của Vũ ngọc Khánh và Trần Mạnh Thường
Tục Ngữ Ca dao Việt Nam cuả Nguyễn Văn Ngọc

No comments:

Post a Comment